• An Giang
  • Bình Dương
  • Bình Phước
  • Bình Thuận
  • Bình Định
  • Bạc Liêu
  • Bắc Giang
  • Bắc Kạn
  • Bắc Ninh
  • Bến Tre
  • Cao Bằng
  • Cà Mau
  • Cần Thơ
  • Điện Biên
  • Đà Nẵng
  • Đà Lạt
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Đồng Nai
  • Đồng Tháp
  • Gia Lai
  • Hà Nội
  • Hồ Chí Minh
  • Hà Giang
  • Hà Nam
  • Hà Tây
  • Hà Tĩnh
  • Hòa Bình
  • Hưng Yên
  • Hải Dương
  • Hải Phòng
  • Hậu Giang
  • Khánh Hòa
  • Kiên Giang
  • Kon Tum
  • Lai Châu
  • Long An
  • Lào Cai
  • Lâm Đồng
  • Lạng Sơn
  • Nam Định
  • Nghệ An
  • Ninh Bình
  • Ninh Thuận
  • Phú Thọ
  • Phú Yên
  • Quảng Bình
  • Quảng Nam
  • Quảng Ngãi
  • Quảng Ninh
  • Quảng Trị
  • Sóc Trăng
  • Sơn La
  • Thanh Hóa
  • Thái Bình
  • Thái Nguyên
  • Thừa Thiên Huế
  • Tiền Giang
  • Trà Vinh
  • Tuyên Quang
  • Tây Ninh
  • Vĩnh Long
  • Vĩnh Phúc
  • Vũng Tàu
  • Yên Bái

Trực tuyến: Tháo gỡ vướng mắc, đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở các huyện nghèo

(Chinhphu.vn) - Chiều nay (4/11/2010), tọa đàm trực tuyến nhằm giải đáp và tháo gỡ vướng mắc, đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở các huyện nghèo được tổ chức tại Cổng TTĐT Chính phủ.

04/11/2010 14:30

Ảnh Chinhphu.vn

 
Qua hơn một năm triển khai thực hiện Quyết định 71/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo trong cả nước đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020, chính sách này đã phát huy hiệu quả thiết thực.

Đã có hàng ngàn lao động ở các huyện nghèo được hỗ trợ về vốn và kinh phí đào tạo, làm thủ tục đi làm việc ở nước ngoài với nguồn thu nhập khá và ổn định.

Đây là tiền đề để nhân dân ở các huyện nghèo có điều kiện vươn lên thoát nghèo nhanh và bền vững khi trở về nước.

Nhằm thông tin một cách đầy đủ về kết quả triển khai chính sách trên, đồng thời tiếp thu ý kiến phản ánh của các tổ chức, cá nhân về những vướng mắc, bất cập cần tháo gỡ để Quyết định của Thủ tướng phát huy hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới, giúp nhân dân yên tâm đi xuất khẩu lao động và đáp ứng nguyện vọng của đông đảo bạn đọc, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức cuộc Tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Tháo gỡ vướng mắc, đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở các huyện nghèo”.

Dự Tọa đàm có:

- Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

- Ông Nguyễn Văn Lý, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam.

- Ông Trịnh Quang Chinh, Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Lào Cai. 

- Ông Nguyễn Ngọc Hoan, Giám đốc Công ty Đào tạo nghề và xuất nhập khẩu lao động.       

- Ông Trương Đức Vinh, Giám đốc Công ty cổ phần phát triển Liên Việt.

MC: Trước hết xin ông có thể khái quát những ý nghĩa với các huyện nghèo của  Quyết định 71/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ?

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh - Ảnh Chinhphu.vn

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh: Chúng ta đều biết Nghị quyết 30a của Chính phủ đưa ra các biện pháp tổng hợp hỗ trợ các huyện nghèo. Trong quá trình xây dựng Nghị quyết, Bộ LĐTBXH thấy rằng xuất khẩu lao động là một giải pháp có thể giúp lao động các huyện nghèo nhanh chóng thoát nghèo, nên đã báo cáo Chính phủ xin xây dựng đề án về vấn đề này.

Người lao động làm các công việc không phức tạp lắm ở những thị trường tương đối dễ tính như Malaysia có thể gửi về tới 4 triệu đồng mỗi tháng. Ở Hàn Quốc có thể tới 20 triệu và chỉ sau vài tháng đã gửi về thường xuyên. Chúng ta đều biết đây là một khoản tiền rất lớn ở các vùng nghèo.

Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành QĐ 71 phê duyệt đề án.

MC: Xin ông cho biết QĐ 71 đạt được kết quả gì?

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh: Qua quá trình thực hiện triển khai QĐ 71 cho 62 huyện nghèo tại 20 tỉnh đã thu được những kết quả thiết thực. Có 8.500 lao động đăng ký đi lao động ở nước ngoài và có 8.000 lao động đủ tiêu chuẩn. Chúng tôi cũng đã mở những lớp đào tạo cho khoảng 6.500 người.

Đã có trên 4.000 đi lao động ở nước ngoài chủ yếu ở Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Libya.

Nhiều người có tiền gửi về nước sau khi lao động vài tháng. Điển hình như người lao động ở Mù Cang Chải, Yên Bái, lao động tại Libya sau 2 tháng đã nhận được 15 triệu đồng để gửi về cho người thân. Đây là số tiền không nhỏ đối với thu nhập vùng núi.

MC: Lào Cai là 1 trong những tỉnh triển khai QĐ 71, xin ông cho biết cụ thể kết quả đạt được tại Lào Cai?

Ông Trịnh Quang Chinh - Ảnh Chinhphu.vn

Ông Trịnh Quang Chinh: Tiếp theo ý kiến của Cục trưởng, tôi xin nói thêm, QĐ 71 là Quyết định rất nhân văn giúp những người nghèo có cơ  hội thoát nghèo bền vững, không những có thu nhập cao bởi việc thu nhập khi đi lao động là tất yếu, mà quan trọng hơn, khi đi nước ngoài về họ học được phong cách làm việc của nước ngoài, từ đó áp dụng và chỉ dẫn cho người xung quanh.

Chính vì vậy, khi có QĐ 71, tỉnh Lào Cai đã thành lập Ban Chỉ đạo do đồng chí Chủ tịch UBND làm trưởng ban, tôi làm phó ban cùng tất cả Bí thư huyện ủy của các huyện nghèo. Và thực sự, cấp ủy, chính quyền địa phương, các đoàn thể chính trị xã hội như Mặt trận Tổ quốc, đoàn thanh niên, hội nông dân, hội cựu chiến binh đều nhập cuộc tích cực. Ở vòng sơ tuyển bước đầu có gần 600 người tham gia và gần 500 người học tập định hướng.

Đến nay, Lào Cai có khoảng gần 160 người chính thức đi lao động ở nước ngoài, không có trường hợp nào bỏ về.

Các em đi làm việc ở các thị trường giản đơn do trình độ lao động miền núi còn thô sơ. Tuy nhiên, như đồng chí Quỳnh nói, chúng ta không nên chỉ nhìn vào thu nhập cao hay thấp. Bởi các em làm việc tại các thị trường giản đơn sau khi trừ tiền sinh hoạt vẫn gửi về 3-5 triệu đồng/tháng. Còn đương nhiên các em có tay nghề cao, như tỉnh có 19 em được Bộ LĐTBXH quan tâm cho đi học định hướng và lao động tại Nhật Bản thì thu nhập cao hơn. 

Thực tế ở Mường Khương có nhiều em ở xã Bản Lầu, Thanh Bình có thu nhập như vậy, cùng góp mua trâu, xây nhà… và làm những việc đại sự cho gia đình.

Các em đi lao động được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước từ việc giáo dục định hướng cho tới việc xuất cảnh đều rất thuận lợi. Đặc biệt gần đây NHCSXH đã có những văn bản hướng dẫn mới hơn, thuận lợi hơn đối với việc vay vốn.

Tôi cho rằng, mặc dù mới chỉ có 160 em đi xuất khẩu lao động, nhưng theo tôi chính sách này đã đi vào cuộc sống tại Lào Cai và đã được đồng bào đón nhận tích cực. Điều lớn nhất chưa phải đi nhiều hay ít mà là nhận thức của đồng bào đã chuyển biến và hiểu rằng đây là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo.

MC: Xin ông Nguyễn Ngọc Quỳnh có thể cho biết một lần nữa về những đối tượng nào được hỗ trợ theo QĐ 71 cũng như những hỗ trợ cụ thể của Nhà nước với các đối tượng này? 

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh: Trong quá trình xây dựng đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động, chúng tôi đã phối hợp với rất nhiều bộ, ngàng có liên quan thảo luận hỗ trợ như thế nào cho người nghèo. Như tất cả đều biết, tại các huyện nghèo thì người lao động thiếu  nhiều điều kiện: trình độ văn hóa, trình độ nghề, ngoại ngữ, phong tục tập quán chưa

phù hợp với các quốc gia hiện đại, chi phí… QĐ 71 hỗ trợ những điều kiện này để người lao động trước hết là có đủ tiêu chuẩn, trình độ để người sử dụng lao động nước ngoài có thể tuyển dụng, sau đó là đủ chi phí để đi.

Các chính sách cụ thể là bổ túc văn hóa  cho người lao động để đủ trình độ văn hóa đi xuất khẩu lao động tùy vào yêu cầu của thị trường. Thứ hai là hỗ trợ học nghề, học ngoại ngữ, giáo dục định hướng trước khi đi. Thứ ba là hỗ trợ các thủ tục làm visa, hộ chiếu, khám sức khỏe. Tiếp theo là hỗ trợ về chi phí về vé máy bay, các lệ phí…

Cụ thể hơn, lao động thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số được Chính phủ hỗ trợ các khoản như hỗ trợ 100% học phí học nghề, ngoại ngữ và giáo dục định hướng; tiền ăn, ở trong thời gian học, tiền tàu, xe (cả đi và về) từ nơi cư trú đến nơi đào tạo.

Đối với người lao động khác tại các huyện nghèo, được hỗ trợ học phí nhưng không được hỗ trợ tiền ăn ở.

Một khoản hỗ trợ khác là cho vay vốn để trang trải các chi phí trước khi đi. Bộ và NHCSXH đã thống nhất mức trần cho vay là đủ chi phí.

Đó là các hỗ trợ được đưa ra trong QĐ 71 và xin nói là mọi lao động trong huyện đều được hỗ trợ, có điều là mức khác nhau giữa lao động thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số và các đối tượng khác.

Nói thêm về thị trường, Chính phủ và Bộ tạo điều kiện cho người lao động đi làm việc tại nghiều thị trường khác nhau chứ không phải chỉ các thị trường dễ tính. Vừa rồi, ngay sau khi triển khai QĐ 71, Bộ có giao cho chúng tôi thí điểm chọn lao động các huyện nghèo để đào tạo đưa đi xuất khẩu tại Hàn Quốc. Đã có 140 người được đào tạo và đã có 50 người đi Hàn Quốc. Chúng tôi cũng tạo điều kiện cho lao động các huyện nghèo tại rất nhiều tỉnh có trình độ văn hóa tạm đáp ứng được yêu cầu của phía Nhật Bản để đào tạo tập trung tại Hà Nội và cũng đã có rất nhiều người đi Nhật. 

Chúng tôi đã báo cáo và Bộ đã đồng ý cho các tỉnh có huyện nghèo tiếp tục tổ chức cho người lao động đi học tiếng Hàn và tháng 3 sang năm nhiều người sẽ có đủ tiêu chuẩn đi Hàn Quốc.

MC: Xin ông cho biết quy định về mức vay, thời hạn cho vay đối với các đối tượng theo QĐ 71/2009/QĐ-TTg  và các thủ tục mà người vay vốn phải thực hiện?

Ông Nguyễn Văn Lý - Ảnh Chinhphu.vn

Ông Nguyễn Văn Lý: Chúng tôi cũng đã được giao nhiệm vụ giải ngân cũng như kịp thời ban hành văn bản có liên quan đến quá trình vay vốn, thủ tục vay vốn cho các đối tượng theo QĐ 71 hướng dẫn trên toàn quốc.

Chúng tôi thực hiện thống nhất toàn quốc và có sự đăng kí về thủ tục hành chính của Chính phủ để khẳng định đồng bào vay vốn có thể đến bất kì điểm giao dịch nào của chúng tôi để thực hiện vay vốn.

Chương trình rất cởi mở được vay đầy đủ chi phí chứ không có mức tối đa. Ví dụ đi Nhật Bản, tốn 30-40 triệu đồng thì được vay cả số tiền bằng cả khoản chi phí đó.

Về lãi suất, đây là chương trình ưu đãi. Hộ không nghèo được vay bằng lãi suất ưu đãi như đối với người nghèo của khu vực khác. Hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số được vay với lãi suất bằng một nửa hộ nghèo khu vực khác. Chúng tôi đang cho vay mức 0,65% tháng thì hộ nghèo  và dân tộc vay với mức 0,32% tháng.

Thủ tục ban hành thống nhất và có văn bản pháp lý. Thủ tục đủ mà không cho vay thì là sách nhiễu nhân dân. Thủ tục không đủ mà cho vay thì cần có hình thức xem xét.

Nhân dịp qua buổi tọa đàm tại Cổng TTĐT Chính phủ, tôi cũng thông báo tinh thần này để người vay vốn cần làm đúng thủ tục và không để người khác sách nhiễu mình.

MC:  Thưa ông trong trường hợp gặp rủi ro khách quan người lao động phải về nước trước thời hạn, xử lý thế nào ?

Ông Nguyễn Văn Lý: Hiện nay, chúng tôi đang thực hiện Quyết định mới nhất là QĐ 50 của Thủ tướng Chính phủ về xử lý nợ rủi ro trong các khoản cho vay của NHCSXH.

Riêng cho vay xuất khẩu lao động, những rủi ro được coi là khách quan như người lao động bị ốm đột xuất, doanh nghiệp nơi người lao động sản xuất bị giải thể, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khiến doanh nghiệp đơn phương chấm dứt hợp đồng…

Với các lý do khách quan thì chúng tôi sẽ xử lý nợ rủi ro. Nếu thiệt hại ít, dưới 40%, chúng tôi sẽ gia hạn nợ. Từ 40-80% chúng tôi cho khoanh nợ 3 năm. Trên 80% thì khoanh nợ 5 năm. Sau kỳ khoanh nợ 3, 5 năm, nếu vẫn còn khó khăn, cho khoanh nợ tiếp. Sau đó, nếu vẫn còn khó khăn, khi xét khả năng tận thu không còn, chúng tôi làm thủ tục xóa.

Khái niệm khoanh nợ, tức là trong thời gian ngân hàng duyệt khoanh nợ thì người vay chưa phải trả gốc và lãi.

Với trường hợp chủ quan do người lao động tự động bỏ về nước, chúng tôi phải tận thu các khoản để thu hồi vốn cho ngân sách và sẽ không áp dụng một chính sách ưu tiên nào đối với trường hợp này. Chúng tôi xin nhắc nhở người vay vốn cẩn thận hơn khi chọn con đường xuất khẩu bởi đã được chọn để vay vốn đi lao động thì phải quyết tâm hoàn thành hợp đồng lao động và hoàn trả lại vốn cho Chính phủ.

MC: Như vừa rồi ông Lý chia sẻ về việc người nghèo vay vốn của NHCSXH, tại Lào Cai việc này như thế nào?

Ông Trịnh Quang Chinh: Tôi cho rằng sự chỉ đạo của NH CSXH là nhất quán từ Trung ương, bản thân Giám đốc NHCSXH của Lào Cai cũng là thành viên thường trực của Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động này.

Cũng như vậy, ở các huyện, hệ thống giải ngân của NH rất rộng khắp và gần gũi với dân nên việc tiếp cận nguồn vốn không phải là khó. Nhưng lúc đầu do bà con cũng có tâm lý chưa thật yên tâm hoặc do cán bộ vận dụng hơi cứng nhắc, tuy nhiên, việc này sau đó đã được giải thích và chỉnh sửa bằng các hướng dẫn của Trung ương. Nên hiện nay những người đã quyết tâm đi và chọn được thị trường tốt, cộng với những doanh nghiệp tận tình giúp đỡ thì những khó khăn với trường hợp này không xảy ra và họ đã sẵn sàng đến với nguồn vốn của ngân hàng.

MC: Đối với mỗi doanh nghiệp thì hiệu quả hoạt động là mục tiêu quan trọng nhất, vậy trong thời gian qua doanh nghiệp đã xác định trách nhiệm xã hội của mình như thế nào khi tham gia triển khai QĐ 71/2009/QĐ-TTg?

Ông Nguyễn Ngọc Hoan - Ảnh Chinhphu.vn

Ông Nguyễn Ngọc Hoan: Chúng tôi trực thuộc công ty TNHH một thành viên vật tư công nghiệp quốc phòng (GAEP) của Bộ Quốc phòng, một doanh nghiệp quốc phòng – kinh tế. Lĩnh vực đào tạo nghề và xuất khẩu lao động chúng tôi cũng đảm nhiệm toàn bộ.

Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, cũng như các doanh nghiệp khác, vấn đề hiệu quả là luôn được đặt ra. Nhưng khi triển khai QĐ 71, chúng tôi xác định lợi nhuận không phải là mục tiêu hàng đầu mà quan trọng nhất là đưa được nhiều nhất con em tại 62 huyện nghèo đi xuất khẩu lao động nước ngoài.

Chúng tôi cũng cho rằng việc xuất khẩu lao động là con đường xóa nghèo nhanh nhất và tại các huyện nghèo, chỉ cần mỗi gia đình có một người đi thì thôn bản, xã, huyện sẽ giàu lên, tạo nền tảng phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh, dần xóa khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.

Được tham gia chương trình 30a và trực tiếp là QĐ 71 là một trách nhiệm của chúng tôi góp phần xóa đói giảm nghèo cho bà con các huyện nghèo.

MC: Ông có thể chia sẻ những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình triển khai QĐ 71?

Ông Nguyễn Ngọc Hoan: Cũng không phải riêng chúng tôi mà mọi DN được thực hiện chương trình này đều có những khó khăn tương tự nhau. Như trình độ hiểu biết của con em đồng bào còn hạn chế, lượng thông tin đến với họ cũng rất ít bởi nhiều gia đình chưa có cả tivi. Một khó khăn nhỏ khác là nhiều người chưa thạo tiếng Kinh nên dù  có truyền hình, tiếp cập thông tin cũng khó khăn. Khi chúng tôi đến Hà Giang và Cao Bằng, chương trình truyền hình phải phát bằng tiếng dân tộc.

Thứ hai, trong quá trình làm, khoảng cách từ xã, thôn, bản đến huyện rất xa. Có xã cách huyện tới 100km nên việc người lao động đến huyện  làm các thủ tục và các cán bộ doanh nghiệp đến với dân cũng rất khó khăn.

Khó khăn nữa là việc tuyên truyền của cán bộ, nhất là tại các xã và thôn bản rất hạn chế. Khi chúng tôi đến làm việc trực tiếp thì nhiều xã chưa nắm rõ chương trình này, nên việc vào cuộc của cán bộ xã và các trưởng thôn, trưởng bản rất hạn chế.

Tiền trợ cấp cho người lao động cũng là một khó khăn. Ví dụ, hiện người lao động được hỗ trợ vé tàu xe 1 lượt đi/về trong quá trình học nhưng thực tế người lao động có ít nhất 2 lần đi/về, nhiều lao động tới 3 lần vì những lý do đặc biệt. Ngoài ra, quãng đường từ huyện về gia đình người lao động tại nhiều nơi tới hàng trăm km nhưng chi phí đó doanh nghiệp không thể chứng minh được với cơ quan quản lý nhà nước nên chúng tôi phải bỏ chi phí đó để giữ lao động.

MC: Thưa ông Vinh, ông có thể cho biết về các khó khăn khi doanh nghiệp cũng triển khai QĐ 71?

Ông Trương Đức Vinh - Ảnh Chinhphu.vn

Ông Trương Đức Vinh: Có thể kể tới các khó khăn về địa lý, vùng miền, thời tiết và dân trí, đặc biệt là địa hình. Tất cả các huyện nghèo đều nằm ở vùng sâu xa. Dân trí, thông tin,  giao thông đều hạn chế. QĐ 71 này mang ý nghĩa xã hội cao nhất, cao hơn yếu tố kinh doanh và lợi nhuận công ty.

Đây là những huyện giàu truyền thống cách mạng và văn hóa, có tiềm năng rất lớn như tiềm năng về lao động, đất đai, tài nguyên nhưng do cách làm việc và cách sống đã hạn chế họ phát triển kinh tế. Chúng tôi xác định đây là công việc vất vả hơn công việc đối với đối tượng tại các vùng khác.

Ví dụ khi chúng tôi triển khai vay vốn cho lao động, có ngân hàng chính sách xã hội địa phương yêu cầu chúng tôi trình lịch bay, vé bay mà về sau chúng tôi biết ngân hàng chính sách xã hội trung ương không yêu cầu.

Hoặc như trong hồ sơ lao động có những điểm phải xác minh hồ sơ nhiều lần, thậm chí  chúng tôi phải về tận xã xác minh. Tôi muốn các cơ quan nhà nước có thể giảm hơn nữa thủ tục hành chính cho người lao động, đỡ hơn cho doanh nghiệp và nhất là người lao động vùng sâu, xa.

MC: Như ông Vinh đã chia sẻ khó khăn về phía DN, đó cũng như lời đề nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Vậy, về việc tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho DN, ông có thêm ý kiến gì?

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh: Vâng như tôi đã nói, thực hiện chương trình theo QĐ 71 của Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ người lao động các huyện nghèo đi xuất khẩu lao động, ngay từ đầu chúng ta xác định  là điều không dễ. Có nhiều người cũng hoài nghi về chương trình này, tuy nhiên, tới giờ, với những kết quả đã làm được, nhiều người nói với chúng tôi, Bộ LĐTBXH và các cơ quan đang triển khai rất tốt.

Thực ra, ai cũng thấy có những khó khăn, chúng ta đều biết, người lao động ở thôn bản xa khi về tới Hà Nội rất bỡ ngỡ, chưa nói tới việc đi sang các nước phát triển tiên tiến. Nhưng tôi cho rằng, các DN gặp nhiều khó khăn nhưng cũng có rất nhiều thuận lợi.

Thứ nhất, các DN trước đây tuyển lao động thông thường không nhận được nhiều sự hợp tác của địa phương như bây giờ.

Kể từ khi có QĐ 71 của Thủ tướng, các địa phương, các huyện nghèo đều quán triệt nhận thức đầy đủ đây là việc giúp cho huyện mình, tỉnh mình, nên phần lớn các địa phương đã vào cuộc với sự hỗ trợ từ các DN.

Thứ hai, người lao động trước đây kể cả các huyện không nghèo cũng gặp nhiều khó khăn trong kinh phí, làm thủ tục nhưng hiện nay theo QĐ 71, người lao động được tạo điều kiện tới mức tối đa. Đây cũng là thuận lợi cho DN.

Tất nhiên còn nhiều khó khăn khác nữa và chúng tôi thường xuyên giao ban họp về vấn đề này với các DN.

Theo QĐ 71, 2009-2010 là 2  năm thực hiện thí điểm. Năm 2011 tiến hành sơ kết để xem xét lại cách làm và rút kinh nghiệm triển khai tiếp.

Theo chỉ đạo của Bộ LĐTBXH, hiện chúng tôi cùng các bộ, ngành, tỉnh, huyện, DN sơ kết 2 năm thực hiện QĐ 71.

Tất cả các vấn đề, khó khăn mà DN, chính quyền địa phương gặp phải trong quá trình triển khai sẽ được nghiên cứu kỹ, từ đó kiến nghị  Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành liên quan sửa đổi, tạo điều kiện tốt hơn trong việc thực hiện Quyết định này.

MC: Với Lào Cai, có những khó khăn gì trong việc triển khai QĐ 71?

Ông Trịnh Quang Chinh: Cũng như với các tỉnh khác, các huyện nghèo của Lào Cai là nơi có nhiều đồng bào dân tộc. Theo tôi, việc nhận thức, việc dám bước qua mặc cảm để đến với một nơi xa lạ là khó khăn nhất với đồng bào chứ không phải là họ không thích lao động, bởi ở nhà họ còn lao động vất vả hơn nhiều.

Vì vậy, chúng tôi tập trung rất nhiều vào việc tuyên truyền và việc tuyên truyền phải hết sức mềm dẻo và linh hoạt, chứ không phải lúc nào cũng trên đài trên báo bởi cũng chỉ có một số người tiếp cận được.

Nhiều khi phải nhờ sự hỗ trợ của các đoàn thể xã hội ở cơ sở để đi sâu, đi sát, nắm tình hình của bà con. Việc này cũng không phải ngày một ngày hai nhiều người nhận thức ra được. Bởi có trường hợp đã vay vốn, làm xong thủ tục visa nhưng có tác động gì đó từ phía gia đình, hoặc thậm chí từ người yêu thì lập tức hoãn lại.

Với những trường hợp như vậy, chúng tôi phải kiên trì động viên người lao động yên tâm, không ai có thành kiến gì cả, lần này không đi thì lần sau đi, mặc dù làm thế cũng sẽ có phần khó cho các đơn vị ngồi đây. Nhưng phải chấp nhận bởi chúng tôi thống nhất với nhau rằng, làm lượt đầu này mà thành công thì sẽ thành công tất cả.

Thứ hai, chúng tôi cũng làm hộ bà con những thủ tục hành chính. Mất chứng minh thư thì chúng tôi phối hợp với bên Công an làm ngay, không bắt người lao động phải đi làm. Việc xác định lý lịch thì người lao động kê khai, trưởng thôn, chủ tịch xã xác nhận ngay. Về khám sức khỏe thì gọi đội lưu động đến một nơi tập trung để người lao động cùng khám. Các tổ vay vốn đến ngay tại nơi tập trung, phát tờ khai, làm các thủ tục là xong. Tức là tạo thuận lợi nhất để  người lao động không cảm thấy thủ tục rườm rà, cảm thấy sự quan tâm, dần dần bà con sẽ không thấy có gì khó khăn, thấy có thể đi xuất khẩu được.

Phải nói nhiều đồng chí lãnh đạo huyện rất tâm huyết. Phó Chủ tịch huyện Si Ma Cai có 5 người cháu đi xuất khẩu lao động, nhưng ban đầu vận động cũng rất khó. Tôi nói anh Chủ tịch huyện rằng nếu không vận động được thì phong trào của Si Ma Cai sẽ hỏng. Anh Chủ tịch phải dùng đến uy quyền dòng họ để vận động 5 người cháu đi, sau đó, khi họ gửi tiền về, anh liên lạc với họ bằng điện thoại di động, bật loa lên cho bà con nghe và đã vận động được rất nhiều người.

Nói thế để biết việc giúp bà con đi xuât khẩu lao động tuy rất khó khăn nhưng có thể làm được nếu chúng ta kiên trì, đồng thuận và vận động với phương pháp tốt. Và tôi tin trong một ngày không xa, bà con sẽ tự nguyện tìm đến chúng ta để được đi lao động ở nước ngoài như việc dạy nghề cho lao động nông thôn trước đây.

Ảnh Chinhphu.vn

MC: Tuy nhiên, thưa ông Quỳnh, trong hoạt động xuất khẩu lao động nói chung hiện nay dư luận rất lo ngại về tình trạng lao động bị cò mồi lừa đảo, doanh nghiệp thì “đem con bỏ chợ”, khiến cho người dân bị tiền mất tật mang. Chúng ta đã có Cục quản lý lao động nước ngoài mà tại sao người dân vẫn không tiếp cận được tận nơi cơ quan đưa họ đi mà vẫn phải qua khâu môi giới ?

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh: Vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có 1 đoàn giám sát về việc triển khai công tác này từ năm 2007 đến nay. Đoàn giám sát cũng đưa ra những đánh giá.

Nhìn chung, các doanh nghiệp cũng đã cố gắng đưa nhiều lao động ra nước ngoài cũng như cố gắng thực hiện đúng pháp luật.

Tuy nhiên cũng phải kể tới những doanh nghiệp đã thực hiện sai. Dư luận cũng đã nêu hiện tượng lừa đảo, cò mồi, môi giới người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Chúng tôi cũng đã kiểm tra và xử lý đúng theo pháp luật.

Bộ LĐTBXH đã phối hợp với Bộ Công an ban hành Thông tư liên tịch phối hợp, phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện xử lý vi phạm trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. Theo đó, Bộ Công an cũng đã đề nghị truy tố mấy trăm vụ việc lừa đảo .

Các cấp, ngành cũng đang tích cực nghiên cứu hoàn thiện chính sách pháp luật cũng như chỉ đạo kịp thời hơn nữa trong lĩnh vực này.

Về công tác thực hiện theo QĐ 71, ngay từ đầu chúng tôi nêu cao trách nhiệm của doanh nghiệp. Hiện nay có 26 doanh nghiệp tham gia tích cực. Vượt qua rất nhiều khó khăn và mất nhiều chi phí hơn so với tuyển lao động ở đồng bằng nhưng doanh nghiệp vẫn tích cực tham gia cũng vì mục tiêu xã hội của QĐ 71.

Vì vậy hiện tượng môi giới, cò mồi ở những trường hợp trên là không có. Người lao động là người nghèo, không có cả tiền làm thủ tục vì  vậy làm gì có tiền cho cò mồi.

Thêm nữa các đồng chí lãnh đạo xã, bản còn phải vận động và trực tiếp làm hồ sơ cho con em mình là người dân tộc đi lao động để làm gương. Do đó không có chuyện cò mồi ở đây.

MC: Thưa ông Hoan và ông Vinh, tôi muốn nghe ý kiến của ông về vấn đề này.

Ông Nguyễn Ngọc Hoan: Về vấn đề tiêu cực trong quá trình thực hiện chương trình này, tôi khẳng định, chắc chắn không có.

Như ông Quỳnh vừa nói, đây là chương trình mà từ Bộ LĐTBXH xuống tới tất cả các tỉnh đều có Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động. Huyện cũng có ban chỉ đạo. Cục quản lý lao động phối hợp với các DN, các  tỉnh triển khai từng hội nghị, quán triệt từ cấp tỉnh tới cấp huyện, ở các huyện lại mời các chủ tịch, bí thư các xã và cùng với cán bộ huyện xuống xã tổ chức hội nghị tư vấn tại địa phương.

Tôi cho rằng, trong quá trình đó, người dân đã nhận thức rõ chương trình cũng như những ưu đãi của Chính phủ. Do vậy, trong quá trình đó, không thể có đối tượng nào len lỏi vào làm ảnh hưởng được tới chương trình này. Tôi cho rằng, đây là chương trình sạch.

Ông Trương Đức Vinh: Tôi khẳng định không thể có chỗ cho cò mồi ảnh hưởng tới chương trình. Vì tất cả cán bộ của công ty xuống tận địa phương tuyên truyền vận động làm thủ tục hồ sơ và tất cả chúng tôi đều xác định làm tại chỗ, có những đêm 9h tối còn ở trong xóm làm hồ sơ cho dân. Tôi khẳng định một lần nữa, trong chương trình này không có lừa đảo hay có mồi.

Dạy nghề cho các lao động trước khi xuất khẩu

MC: Thưa ông Quỳnh, như vậy có thể khẳng định, không có cơ sở tự phát ngoài tầm kiểm soát của cơ quan nhà nước?

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh: Xin mời ông Chinh chia sẻ cụ thể hơn về vấn đề này.

Ông Trịnh Quang Chinh: Tôi khẳng định chương trình này không thể có.

Bởi DN nào đã được chọn đều được sự thẩm định của Bộ LĐTBXH. Tôi cũng đánh giá cao các DN này đã hết sức lo cho dân, vì dân, vì Chính phủ. Họ vất vả hơn nhiều lần so với làm các công việc khác.

Thứ 2, khi về, họ đều phải xuất hiện trước chúng tôi, cán bộ của họ là ai chúng tôi đều quản lý cả. Không chỉ chúng tôi, bí thư huyện ủy, chủ tịch huyện, bí thư đảng ủy xã, chủ tịch xã đều biết họ và thậm chí nếu không dựa vào các cán bộ này thì họ cũng không làm được việc.

Hơn nữa, những người lừa đảo cò mồi cũng không làm được gì, vì tất cả người lao động đi đã được Chính phủ chăm lo và người lao động tin vào Đảng, Nhà nước là tất yếu.

MC: Ông Lý có ý kiến gì về vấn đề này?

Ông Nguyễn Văn Lý: Vâng, tôi cũng muốn trao đổi thêm với các đơn vị thực hiện xuất khẩu. Thủ tục vay vốn của NHCS chúng tôi ban hành rất rõ, đã đăng trên website, đăng ký với Chính phủ và công khai tại địa phương. Hiện tại các xã chúng tôi đều đặt điểm giao dịch.

Tuy nhiên, trong khi làm, vừa rồi có một số địa phương đặt ra việc khi nào có vé máy bay mới cho vay. Đây là chuyện có thật và chúng tôi đã chấn chỉnh.

Hiện chúng tôi cho vay căn cứ theo hợp đồng lao động đã ký giữa người lao động với cơ quan tuyển dụng. Đây là căn cứ duy nhất để cho vay. Người vay vốn dùng tiền này để mua vé máy bay. Nếu một số địa phương đòi hỏi thêm, theo chúng tôi, là sai.

Cán bộ NHCS ở các cơ sở lúc nào cũng canh cánh chỉ sợ cho vay sai đối tượng. Do vậy, ngòai thủ tục chính, họ muốn có thêm giấy tờ phụ như thế. Chúng tôi khẳng định không thể được và phải chấn chỉnh. Chúng tôi rất muốn trong quá trình tuyển dụng, nếu có trục trặc, khó khăn, đòi hỏi thêm điều kiện thủ tục, đề nghị trao đổi thêm với chúng tôi..

Còn chúng tôi khẳng định khi thực hiện cho vay theo QĐ 71 đối với NHCSXH là rất thuận lợi.

Tại địa bàn theo QĐ 71, đã có bàn tay của Chính phủ mà cụ thể là Cục quản lý lao động ngoài nước hướng dẫn, hỗ trợ và tuyển chọn và sự phối hợp của cả hệ thống chính trị. Nói chung, theo tôi khẳng định, tuyển dụng lao động trên địa phương này thuận lợi nhiều hơn khó khăn.

Tôi thấy rằng, Cục quản lý lao động ngoài nước nên tham mưu để DN tuyển dụng trên địa bàn này ít nhất phải được quyền lợi ngang các địa bàn khác. Bởi, các đơn vị kinh doanh hạch toán thu chi mà không đảm bảo chi phí thì tôi cho rằng về lâu dài không bền vững.

Trao đổi qua tọa đàm này tôi thấy phát sinh ra vấn đề đó là đặt ra câu hỏi cho nhà quản lý làm sao đảm bảo cho các đơn vị khi tuyển dụng trên địa bàn A hay khi tuyển dụng trên địa bàn của QĐ 71 phải đảm bảo quyền lợi như nhau, mà theo tôi nghĩ còn phải thuận lợi hơn thì mới bền vững được và người lao động mới có dịch vụ tốt nhất.

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh - Ảnh Chinhphu.vn

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh: Tôi xin nói tiếp ý kiến ông Lý về vấn đề vay vốn theo QĐ 71. Chúng tôi với NHCSXH phối hợp thường xuyên và chặt chẽ.

Trước đây việc vay vốn khi chưa có QĐ 71, NHCSXH các địa phương có nhiều thủ tục khác nhau, chỗ thuận lợi, chỗ ít thuận lợi, nhưng từ khi thực hiện QĐ 71, ở các địa phương khác kể cả không có huyện nghèo thì chúng tôi cũng đều nắm thông tin và  nếu có vướng mắc từ DN, người lao động phản ánh chúng tôi cũng đều thông tin cho NHCSXH và NHCSXH đã xử lý rất nhanh chóng.

Hiện, có vấn đề ở những địa phương có nhiều người đi làm việc ở nước ngoài, trước đây khi lập kế hoạch, có kế hoạch chung, nên nguồn vốn phân bổ về các địa phương như nhau, nhưng có những địa phương nhiều người đi, nguồn vốn không đủ, có những địa phương lại thừa vốn. Sau khi thông báo NHCSXH đã điều chỉnh ngay. Nên hiện việc vay vốn ở NHCSXH rất thuận lợi.

Còn ý kiến của anh Lý về vấn đề hiệu quả kinh doanh của DN, thực ra không ai đám yêu cầu DN lỗ cũng làm. Mục tiêu chung của DN  là vì lợi  nhuận, tất nhiên có thể ít, nhiều và cộng thêm trách nhiệm xã hội. Nhưng theo chúng tôi, thực hiện QĐ 71, các DN không chỉ bù đắp đủ chi phí và có cả lợi nhuận.  

Chúng tôi cũng không yêu cầu DN phải bớt khoản thu này, khoản thu kia của người lao động  mà DN vẫn được thu các khoản theo quy định của pháp luật. Nhưng những khoản đó người lao động đều được vay từ NHCSXH.

Còn tất nhiên, việc đi về vùng sâu, chi phí nhiều hơn. Hơn nữa DN tuyển được 100 người thì sau khi đào tạo, lại bỏ 30-40 người, làm giảm lợi nhuận của DN. Nhưng khi chúng tôi xây dựng đề án này cũng nghiên cứu để xem có thể tạo điền kiện hơn cho DN.

Theo QĐ 71, nếu các DN cần đầu tư cơ sở đào tạo phục vụ QĐ 71, DN cũng có thể được lập dự án để vay ngân hàng phát triển với mức lãi suất ưu đãi. Đó cũng là cách tạo điều kiện cho DN.

Chúng tôi nghĩ rằng chắc chắn các DN được tạo điều kiện về mặt thủ tục, hỗ trợ của các cấp chính quyền địa phương. Còn về mặt kinh doanh, với các khoản thu phí như trước vẫn bảo đảm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

MC: Sắp tới, chúng ta có biện pháp gì để nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc đảm bảo quyền lợi của người lao động?

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh: Riêng với QĐ 71 chúng tôi đang chuẩn bị các nội dung để sắp tới đây tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm và có thể đưa các giải pháp mới.

Còn với vấn đề xuất khẩu lao động nói chung thì căn cứ vào kết quả giám sát của Đoàn giám sát của UBTVQH và các kiến nghị, Nghị quyết của UBTVQH về đợt giám sát vừa rồi.

Chúng tôi cũng đang nghiên cứu để tới đây có thể trình các cấp có thẩm quyền các giải pháp mới trong việc xuất khẩu lao động.

MC: Nhu cầu của bà con các đi xuất khẩu rất lớn, nhưng số lượng người đi nước ngoài còn ít và chưa đạt mục tiêu?

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh: Qua thảo luận vừa rồi, chúng ta cũng thấy tương đối rõ vì sao chúng ta một phần không đạt được mục tiêu mong muốn. Dẫn tới việc mới có hơn 4.000 lao động từ các huyện nghèo ra nước ngoài làm việc thì có nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nhưng chúng tôi cho rằng, nguyên nhân nội tại của chúng ta là chủ yếu.

Về chủ quan, ví dụ, mặc dù chúng ta đã tuyên truyền vận động rất mạnh nhưng số lượng người lao động muốn đi và số lượng người đạt yêu cầu để đi cũng chưa nhiều. Về khách quan, thị trường nước ngoài giảm sút nhu cầu nhiều so với trước đây vì khủng hoảng kinh tế thế giới, gần đây có phục hồi nhưng cũng chậm.

Lao động làm thủ tục xuất khẩu lao động

MC: Có một thực tế là trong thời gian qua phần đông lao động ở các huyện nghèo đều được hỗ trợ đi làm việc ở các thị trường có thu nhập không cao. Vậy trong thời gian tới các ngành chức năng và doanh nghiệp có biện pháp gì để mở ra các thị trường mới và nâng cao thu nhập cho người lao động?

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh: Chủ trương của Chính phủ là không chỉ các lao động ở huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài mà còn tạo điều kiện để những đối tượng này có đủ điều kiện đi lao động ở những thị trường có thu nhập cao.

Chúng ta đã tổ chức thí điểm dạy tiếng Hàn cho 140 người lao động và trong số này có 50 người đã đi lao động tại đây. Vừa qua có  chương trình hợp tác với Nhật Bản và sang Nhật lao động mà không mất chi phí . Tuy nhiên người lao động phải tốt nghiệp lớp 12 thì phía Nhật mới nhận. Vì vậy cũng có tỉnh không đủ lao động đáp ứng tiêu chuẩn này.

Tuy nhiên đây là chương trình dài hạn đến năm 2020. Chúng ta vừa mới triển khai cho nên công tác đào tạo, giáo dục mới ở giai đoạn đầu.

Sau này khi triển khai sâu rộng thì tôi tin tưởng rằng lao động của chúng ta sẽ đạt được kết quả cao và sẽ được làm việc ở môi trường cho thu nhập cao hơn với đòi hỏi tay nghề cao hơn.

MC: Thưa ông Lý, trong thời gian tới NHCSXH sẽ có những hành động gì để giúp người dân dễ tiếp cận nguồn vốn ngân sách?

Ông Nguyễn Văn Lý: Chúng tôi cũng vừa được UBTVQH thực hiện giám sát về cho vay xuất khẩu lao động.  Chúng tôi đã báo cáo các mặt tốt, để tiếp tục triển khai trong thời gian tới và mặt chưa tốt, để sửa chữa.  

Thông điệp của chúng tôi sắp tới là cùng các ngành liên quan tìm mọi cách tháo gỡ khó khăn.  Riêng NHCSXH sẽ chấn chỉnh, kiến quyết loại bỏ những vấn đề, thủ tục rườm rà như các đại biểu nêu.

Còn hiện nay, ngoài chương trình này, chúng tôi  đã thực hiện thêm 18 chương trình của Chính phủ và các giao dịch đều tại xã. Mạng lưới Tổ vay vốn, hội đoàn thể , chính quyền xã phối hợp rất chặt chẽ.

Ảnh Chinhphu.vn

MC: Thưa ông Hoàn và ông Vinh, vậy trong thời gian tới, các DN sẽ làm gì để nâng cao trình độ cho người lao động xuất khẩu cũng như tìm ra các thị trường mới cho người lao động xuất khẩu?

Ông Nguyễn Ngọc Hoan: Trong tương lai, chúng tôi xác định thực hiện chương trình này với tinh thần quyết tâm cao. Chúng tôi cũng hy vọng đưa con em đi lao động nước ngoài có mức thu nhập cao hơn. Yếu tố quan trọng thực hiện việc đó đối với người lao động là làm sao nâng cao trình độ tay nghề, nhận thức. Tới đây phải tổ chức đào tạo, có thời gian rèn luyện tay nghề cho người lao động.

Rất nhiều thị trường thu nhập cao có nhu cầu nhập khẩu lao động nhưng yêu cầu người lao động phải có trình độ cao.

Thứ 2, chúng tôi xác định triển khai một cách sâu rộng hơn nữa QĐ 71 ở những tỉnh có huyện nghèo.

Chúng tôi cho là các DN cũng cần mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, đặc biệt là thị trường có thu nhập cao hơn Malaysia hiện nay. Và tăng cường hợp tác với Bộ LĐTBXH, Cục quản lý LĐ ngoài nước, Hiệp hội xuất khẩu lao động VN và các DN để xúc tiến, tìm các thị trường mới phù hợp với chương trình hiện nay.

Ông Trương Đức Vinh: Hiện nay, công ty chúng tôi cũng giống các công ty bạn, đang đưa lao động  huyện nghèo chủ yếu là lao động phổ thông đi xuất khẩu. Nhưng sau một thời gian, chúng tôi thấy, ngay trong một thị trường, mức thu nhập giữa lao động phổ thông và có tay nghề cũng chênh nhau cao.

Riêng đối với Malaysia, chúng tôi phấn đấu đưa lao động có tay nghề sang thị trường này

Chúng tôi sẽ tăng cường công tác đào tạo, dạy nghề để khi lao động ra nước ngoài có thu nhập ổn định.

Công ty chúng tôi muốn ưu tiên lao động sau khi đã kết thúc hợp đồng ở nước ngoài và đưa họ, khi đó đã có tay nghề, kinh nghiệm, sang làm việc tại thị trường tốt hơn.

MC: Qua cuộc tọa đàm hôm nay, có thể thấy:, sau hơn thời gian tích cực triển khai, QĐ 71/2009/QĐ-TTg đã đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả bước đầu. Đã có hàng ngàn lao động ở các huyện nghèo được hỗ trợ về vốn và kinh phí đào tạo, làm thủ tục để đi làm việc ở nước ngoài với nguồn thu nhập khá và ổn định.

Đây là tiền đề để bà con có điều kiện để vươn lên thoát nghèo nhanh và bền vững khi trở về nước.

Tuy nhiên, chúng ta thấy vẫn còn nhiều vấn đề nảy sinh từ thực tiễn đòi hỏi sự quan tâm tháo gỡ của các ngành chức năng, sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt hơn nữa của chính quyền các địa phương cũng như sự nỗ lực tự thân vươn lên vượt khó của các đối tượng thuộc diện được hỗ trợ. Có như vậy QĐ 71 của Thủ tướng ngày càng phát huy hiệu quả trong cuộc sống góp phần giúp các huyện nghèo giảm nghèo nhanh và bền vững./.

Cổng TTĐT Chính phủ