Tham dự cuộc họp có lãnh đạo các bộ, ngành, 13 tỉnh ĐBSCL, ban quản lý dự án, doanh nghiệp, nhà thầu.
Theo báo cáo của Bộ GTVT, khu vực ĐBSCL đang triển khai 4 dự án đường bộ cao tốc gồm: Cần Thơ - Cà Mau, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Cao Lãnh - An Hữu, Mỹ An - Cao Lãnh. Đến nay, 3 dự án đang tổ chức thi công, riêng dự án Mỹ An - Cao Lãnh đang hoàn thiện thủ tục, dự kiến khởi công đầu năm 2025.
Công tác giải phóng mặt bằng cơ bản đáp ứng tiến độ triển khai thi công, trong đó, cao tốc Cần Thơ - Cà Mau đạt 99,9%, cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đạt 99%, cao tốc Cao Lãnh - An Hữu đạt 100%.
Tuy nhiên, vẫn chưa có nhiều chuyển biến liên quan đến việc di dời hạ tầng kỹ thuật điện, một số vị trí đường điện cao thế chưa thực hiện xong.
Về tiến độ thi công, dự án Cần Thơ - Cà Mau đạt 50%/59% kế hoạch. Dự án Châu Đốc - Cần Thơ-Sóc Trăng: Đoạn qua An Giang đạt 35,9%/35,6%, đoạn qua Cần Thơ đạt 16,4%/31,8% kế hoạch, đoạn qua Hậu Giang đạt 26%/37% kế hoạch, đoạn qua Sóc Trăng đạt 14,5%/23,6% kế hoạch. Dự án Cao Lãnh - An Hữu: Đoạn qua Đồng Tháp đạt 44%/45% kế hoạch, đoạn qua Tiền Giang đang đào hữu cơ, đường công vụ.
Lãnh đạo các địa phương phân tích, làm rõ nguyên nhân và giải pháp khắc phục tình trạng chậm trễ trong việc xác định nguồn, khó khăn trong thủ tục cấp phép khai thác mỏ, nâng công suất ưu tiên cấp cho các dự án cao tốc - Ảnh: VGP/Đình Nam
Về nguồn cát đắp đường, cao tốc Cần Thơ - Cà Mau đã xác định được nguồn 25,7 triệu m3/nhu cầu 18,5 triệu m3; đã cấp bản xác nhận, đủ điều kiện khai thác 23,1 triệu m3 và đang hoàn thiện thủ tục khai thác 2,6 triệu m3.
Dự án cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, đã xác định đủ nguồn và đang hoàn thanh thủ tục cấp phép khai thác cung cấp cho đoạn qua tỉnh Hậu Giang 6 triệu m3; đoạn qua Sóc Trăng 6,6 triệu m3, còn đoạn qua An Giang thiếu 3 triệu m3/nhu cầu 9,3 triệu m3, đoạn qua Cần Thơ còn thiếu 1,85 triệu m3/nhu cầu 7 triệu m3.
Dự án cao tốc An Hữu-Cao Lãnh đã xác định đủ nguồn 3,8 triệu m3 và cấp phép khai thác.
Như vậy, tổng khối lượng cát đắp nền chưa xác định được nguồn 7,45 triệu m3 (tỉnh Tiền Giang 3,25 triệu m3; tỉnh Vĩnh Long 1,2 triệu m3; tỉnh An Giang 3 triệu m3).
Tổng nhu cầu vật liệu cấp phối đá dăm cho cả 3 dự án trên là 5,19 triệu m3 và đã xác định đủ nguồn.
Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Anh Tuấn cho biết, mặc dù trữ lượng các mỏ cát đắp đường cơ bản đáp ứng nhưng việc triển khai thủ tục cấp mỏ cát, công suất khai thác chưa theo kịp tiến độ thi công, đặc biệt là những đoạn tuyến có kế hoạch hoàn thành trong năm 2025.
Nhiều mỏ cát tại tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Sóc Trăng khi khảo sát, đánh giá chất lượng, trữ lượng không đạt tiêu chuẩn nên phải tìm kiếm mỏ khác thay thế.
Tại cuộc họp, lãnh đạo các tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang, Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh đã phân tích, làm rõ nguyên nhân và giải pháp khắc phục tình trạng chậm trễ trong việc xác định nguồn, khó khăn trong thủ tục cấp phép khai thác mỏ, nâng công suất ưu tiên cấp cho các dự án cao tốc; phương án thay thế các mỏ không đạt chuẩn.
Chủ tịch UBND tỉnh Tiền Giang Nguyễn Văn Vĩnh cho biết, một trong những khó khăn là việc tính toán giá bán của các mỏ cát thương mại khi cung cấp cho các dự án cao tốc theo cơ chế đặc thù. Tiền Giang cũng sẽ thực hiện cấp phép khai thác thêm những mỏ cát mới để bảo đảm cung cấp đủ 3,25 triệu m3.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Nguyễn Thị Minh Thuý cho biết tỉnh đang tiến hành hoàn thành thủ tục xử lý để cấp phép khai thác lại 7 khu vực để bù đắp cho khối lượng cát còn thiếu so với chỉ tiêu được Chính phủ giao là 3 triệu m3.
Trong khi đó, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng Lâm Hoàng Nghiệp nêu thực tế một số nhà thầu khai thác không đủ công suất đã được cấp phép làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công của dự án.
"Hiện nay, Sóc Trăng chưa thể hoàn thành thủ tục giao khu vực biển để thực hiện khai thác cát biển do vướng phân định ranh giới quản lý khu vực biển với tỉnh Trà Vinh và cần hướng dẫn của Trung ương để giải quyết", ông Lâm Hoàng Nghiệp kiến nghị.
Lãnh đạo các Bộ GTVT, TN&MT, Xây dựng đã giải đáp, làm rõ kiến nghị của các địa phương về xử lý những nhà thầu, doanh nghiệp vi phạm quy định trong khai thác mỏ; quy chuẩn, tiêu chuẩn khoa học sử dụng cát biển để san lấp cho lĩnh vực xây dựng; thủ tục thu hồi, đóng cửa mỏ, đánh giá và cấp phép khai thác tận thu mỏ đá tại An Giang theo cơ chế đặc thù để phục vụ các dự án cao tốc; xác định mức giá cát khai thác từ mỏ thương mại cung cấp cho dự án cao tốc…
Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng nhấn mạnh, các dự án cao tốc ở ĐBSCL là những dự án đặc biệt quan trọng của đất nước, mở đường, tạo động lực phát triển cho vùng.
Phó Thủ tướng giao Bộ GTVT phối hợp với các địa phương, ban quản lý dự án, nhà thầu rà soát, tổng hợp lại trữ lượng, chất lượng, công suất các mỏ cát theo tiến độ của từng dự án; tính toán thêm phương án sử dụng cát biển để bù trừ giải quyết rủi ro trong tính toán nguồn cát san lấp.
Phó Thủ tướng lưu ý dù không thực hiện đánh giá tác động môi trường đối với những mỏ thực hiện theo cơ chế đặc thù nhưng các địa phương phải lắp đặt thiết bị quan trắc, giám sát, sử dụng công cụ, mô hình tính toán, công nghệ kỹ thuật để xác định độ sâu khai thác mỏ cát, bảo đảm an toàn môi trường, không gây ra sạt lở.
Hoạt động thăm dò, đánh giá trữ lượng, chất lượng và tổ chức khai thác mỏ cát phải gắn với trách nhiệm của các ban quản lý dự án, nhà thầu.
Về khai thác cát biển tại khu vực chưa xác định ranh giới quản lý giữa các địa phương, Phó Thủ tướng nhấn mạnh tinh thần "đây là tài nguyên chung để phục vụ dự án trọng điểm quốc gia và sẽ kết thúc sau khi hoàn thành"; đồng thời Bộ TN&MT, Bộ Nội vụ khẩn trương xác định ranh giới quản lý khu vực biển giữa các địa phương.
Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan (Bộ TN&MT, Bộ KH&CN, Bộ GTVT…) rà soát quy chuẩn, tiêu chuẩn xử lý cát biển phục vụ hoạt động xây dựng, san lấp.
Bộ TN&MT khẩn trương triển khai đánh giá toàn bộ trữ lượng cát sông, biển tại khu vực ĐBSCL.
Để xử lý nút thắt về giá cung cấp cát từ các mỏ thương mại cho dự án cao tốc, Phó Thủ tướng đề nghị doanh nghiệp khai thác, nhà thầu, địa phương, các Bộ Tài chính, GTVT, KH&ĐT, Xây dựng cùng làm việc, thống nhất phương án trên nguyên tắc "lợi ích hài hoà, rủi ro chia sẻ"./.
Minh Khôi