In bài viết

Báo động tình trạng ô nhiễm biển từ nguồn thải lục địa

o nhiem bien

15/11/2011 14:46
Hoạt động quan trắc và phân tích môi trường ven bờ biển Việt Nam do ba trạm quan trắc biển miền Bắc (từ Trà Cổ, Quảng Ninh đến Cửa Lò, Nghệ An), miền Trung (từ Đèo Ngang, Quảng Bình đến Quy Nhơn, Bình Định) và miền Nam (từ Nha Trang, Khánh Hòa đến rạch Giá, Kiên Giang) thời gian gần đây cho thấy dấu hiệu ô nhiễm nước biển từ nguồn thải đất liền đang ngày một tăng cao.
Lượng thải nguồn sinh hoạt ngày càng lớn
Vùng bờ và biển Việt Nam là nơi tập trung gần nửa số tỉnh, thành trong cả nước (28/64), với mật độ dân số cao, tập trung nhiều trung tâm kinh tế đang tạo nên sức ép nặng nề về môi trường, đe dọa ô nhiễm vùng bờ biển cũng như suy thoái tài nguyên biển và đa dạng sinh học. Đặc biệt, nguồn thải từ lục địa bao gồm chủ yếu là nước thải từ các nguồn sinh hoạt chưa qua xử lý như khu du lịch, khu đô thị; công nghiệp như các khu kinh kế, khu, cụm công nghiệp ven bờ, các làng nghề, các cơ sở công nghiệp; nguồn thải từ nông nghiệp do chăn nuôi, nuôi thủy hải sản ven bờ, nước rửa trôi các loại hóa chất từ đồng ruộng ra biển hiện đang trong trình trạng báo động. Kết quả đánh giá nhanh thu được từ nguồn báo cáo hàng năm về môi trường cho thấy, hiện ước tính tổng tải lượng thải nguồn sinh hoạt hàng năm phát sinh ở khu vực ven biển đã lên đến 376,7 nghìn tấn chất dinh dưỡng, hữu cơ (COD) và 215,2 nghìn tấn BOD (chất thải hữu cơ trong nước có thể bị phân hủy bằng các vi sinh vật); 39,2 nghìn tấn Nitơ tổng số (N-T), 11,1 nghìn tấn Phốtpho tổng số (P-T) và khoảng 848,7 nghìn tấn chất rắn lơ lửng (TSS). Trung tâm phát sinh chất thải lớn nhất là TP.HCM với 153 nghìn tấn COD/năm, tiếp theo là Đà Nẵng, Hải Phòng (mỗi tỉnh 21 - 22 nghìn tấn COD/năm), Quảng Ninh, Khánh Hòa, mỗi tỉnh 16- 17 nghìn tấn COD/năm, Bà Rịa _ Vũng tàu 12 nghìn tấn COD/năm, Thừa thiên - Huế trên 10 nghìn tấn COD/năm.
Ngành có lượng chất thải gây ô nhiễm tràn ra biển lớn thứ nhất là nông nghiệp với khoảng 2,21 triệu tấn COD, 1,49 triệu tấn BOD phát sinh mỗi năm. Đặc biệt đã có khoảng 15,5 nghìn tấn hóa chất bảo vệ thực vật và 6,4 triệu tấn là vật chất hữu cơ và thừa ăn thừa đổ ra biển hàng năm. Trong đó, các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Bình Định, Quảng Ngãi, Thái Bình, Quảng Nam và Hà Tĩnh có lượng thải COD lớn hơn 100 nghìn tấn/năm. Các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An là những tỉnh có đàn gia súc lớn và diện tích đất gieo trồng nông nghiệp cao nên lượng chất thải COD khoảng 230 - 295 nghìn tấn/năm và lượng hóa chất bảo vệ thực vật thải ra khoảng 1,1 - 1,4 nghìn tấn/năm).
Nguồn thải từ hoạt động công nghiệp của các vùng ven biển cũng rất đáng lo ngại bởi khối lượng chất thải phát sinh khá lớn: 316 nghìn tấn COD, 119,1 nghìn tấn BOD và khoảng 42,9 nghìn tấn N-T; 5,2 nghìn tấn P-T và 218,6 nghìn tấn TSS. Trong đó, các tỉnh có nguồn thải công nghiệp với tải lượng thải chất hữu cơ tương đương trên 20 nghìn tấn COD/năm trở lên gồn có Bà Rịa - Vũng Tàu, TP.HCM, Cà Mau, Khánh Hòa, Kiên Giang, Quảng Ninh.
Phân tích loại chất thải theo vị trí địa lý từng vùng cho thấy, khu vực miền Trung là nơi tập trung các chất hữu cơ và dinh dưỡng với tỷ lệ khoảng 42 - 52% tổng lượng phát sinh. Miền Nam là nơi tập trung chủ yếu nguồn ô nhiễm từ dầu mỡ, chất rắn lơ lửng và hóa chất bảo vệ thực vật với khoảng 45 - 69%. Tỷ lệ phát sinh các chất ô nhiễm từ miền Bắc khoảng 7 - 25% tổng lượng phát sinh nguồn thải gây ô nhiễm vùng ven biển.
Cần xây dựng một hành lang pháp lý
Theo đánh giá của các chuyên gia quan trắc môi trường, con số thu được qua các trạm quan trắc vào cuối năm 2010 cho thấy, trên 63% lượng dầu thải phát sinh từ hoạt động công nghiệp ở khu vực ven biển và gần 37% là gần 37% là nguồn dầu thải do sông đưa ra. Tỷ lệ "đóng góp" của các nguồn vào tổng lượng phát sinh của hầu hết các chất ô nhiễm ở khu vực ven biển là: Chất thải nông nghiệp là nguồn ô nhiễm chính với trên 76%; nguồn sinh hoạt khoảng 4 - 13% và nguồn công nghiệp là 1,4 - 10,9%.
Tuy nhiên, theo phân tích của các chuyên gia môi trường, tổng tải lượng các chất ô nhiễm từ sông mang ra biển thường rất lớn, song chúng đã được pha loãng trong quá trình chuyển tiếp. Vì vậy, nguồn thải sông ít có khả năng gây ô nhiễm tức thời đối với vùng bờ ven biển mà chỉ tích tụ một số chất ô nhiễm bền như các kim loại nặng gây nên tình trạng ngưng keo, kết bông các bãi triều cửa sông hoặc tích lũy trong cơ thể sinh vật. Nguồn thải nông nghiệp cũng có lượng phát thải lớn nhưng hóa chất gây ô nhiễm này có tác động mạnh đến đất đai hơn là nguồn nước. Trái lại, nguồn thải công nghiệp và sinh hoạt thường có tổng lượng thải không lớn so với hai nguồn trên nhưng chúng là nguồn thải nguy hiểm, thành phần nhiều chất nguy hại, có nồng độ chất ô nhiễm lớn, thường tập trung ven bờ, nhiều nơi bị xả trực tiếp nước thải ra sông, biển, không qua xử lý là mối nguy hiểm lớn nhất đối với môi tường biển.
Trên cơ sở những phân tích về nguồn thải, vị trí và lượng chất thải đang có nguy cơ đe dọa ô nhiễm vùng biển Việt Nam, rất cần xây dựng một hành lang pháp lý và kế hoạch hành động cụ thể để quản lý nguồn gây ô nhiễm biển và ven bờ lục địa, góp phần phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam.
K.Liên