Theo ý kiến của cử tri Đồng Nai, trên thực tế nhiều người dân mua bảo hiểm bắt buộc xe máy chỉ nhằm đối phó với cảnh sát giao thông, trong khi đó tỷ lệ bồi thường lại thấp, việc triển khai và thủ tục chi trả bồi thường bảo hiểm rất khó khăn cho người dân.
Về vấn đề này, Bộ Tài chính trả lời cử tri tỉnh Đồng Nai như sau:
Về cơ sở pháp lý
Theo quy định pháp luật hiện hành, xe cơ giới (bao gồm cả ô tô, xe mô tô, xe gắn máy) được xác định là nguồn nguy hiểm cao độ, cụ thể:
- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 601 Bộ Luật dân sự: "Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới…".
- Theo quy định tại Khoản 18 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ: "18. Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô...; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự".
- Theo quy định tại Khoản 2 Điều 58 Luật Giao thông đường bộ: "2. Người lái xe khi điều khiển phương tiện phải mang theo giấy tờ sau: ...d) Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới."
- Theo quy định tại Luật Kinh doanh bảo hiểm số 08/2022/QH15:
"1. Bảo hiểm bắt buộc là sản phẩm bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng, môi trường và an toàn xã hội
2. Bảo hiểm bắt buộc bao gồm:
a) Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
...5. Chính phủ quy định chi tiết về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu đối với bảo hiểm bắt buộc..."
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 Luật Kinh doanh bảo hiểm, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là 1 trong số 4 loại bảo hiểm bắt buộc.
- Theo quy định tại Khoản 18 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ, xe cơ giới gồm xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện)...
Về kinh nghiệm quốc tế và thực tế triển khai
Nhiều nước áp dụng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô, mô tô, xe máy như Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia,.... Để bảo đảm thực hiện, một số nước như Ấn Độ, Nhật Bản, Singapore,... có quy định việc tham gia giao thông khi không có bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba là bất hợp pháp và có thể áp dụng hình phạt tù trong trường hợp tái phạm, vi phạm nhiều lần.
Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (bao gồm cả ô tô, xe máy) được thực hiện tại Việt Nam đến nay là 34 năm (từ năm 1988 theo Nghị định số 30-HĐBT ngày 10/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng).
Hiện nay mô tô, xe gắn máy vẫn là nguồn phương tiện vận tải cơ giới chủ yếu và là nguồn gây tai nạn lớn nhất tại Việt Nam.
Cụ thể, theo số liệu thống kê của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia (Báo cáo tổng kết 05 năm thực hiện phong trào thi đua bảo đảm trật tự, an toàn giao thông giai đoạn 2016-2020): Tổng số xe máy đã đăng ký tính đến ngày 14/10/2020 là 72 triệu xe, chiếm 63,48% nguyên nhân gây ra tai nạn.
Theo số liệu thống kê bình quân từ năm 2017-2021 của các doanh nghiệp bảo hiểm, tỷ lệ chi bồi thường bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là 19,81%. Riêng về bảo hiểm bắt buộc xe máy năm 2021, số lượng xe được bảo hiểm là 12,4 triệu xe (giảm 3% so với năm 2019), tổng số tiền bồi thường bảo hiểm và dự phòng nghiệp vụ là 1.040 tỷ đồng, tỷ lệ bồi thường bảo hiểm bao gồm cả dự phòng nghiệp vụ là 11%.
Căn cứ quy định pháp luật, kinh nghiệm quốc tế và thực tế triển khai, quy định hiện nay vẫn giữ nguyên quy định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do pháp luật có liên quan (Luật Giao thông đường bộ) quy định xe cơ giới bao gồm cả xe ô tô, xe máy.
Mai Chi