In bài viết

Bảo lãnh dự thầu thiếu nội dung cam kết có hợp lệ?

(Chinhphu.vn) - Ông Lê Đức Phương công tác tại Ban dự án chuyên ngành của tỉnh, được giao nhiệm vụ là thành viên tổ chuyên gia tổ chức lựa chọn nhà thầu thực hiện gói thầu thi công xây dựng công trình, sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước (gói thầu A).

21/06/2025 07:02

Gói thầu A đã được chủ đầu tư phê duyệt E-HSMT theo biểu Mẫu số 3A, ban hành kèm theo Thông tư số 22/2024/TT-BKHĐT ngày 17/11/2024 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính); gói thầu đã được đăng tải Thông báo mời thầu và tiến hành mở thầu theo quy định (thời điểm mở thầu ngày 12/5/2025).

Gói thầu A có 02 nhà thầu tham dự, trong đó nhà thầu có giá dự thầu thấp nhất (nhà thầu B) có bảo lãnh dự thầu thiếu nội dung: "Chúng tôi cam kết thanh toán vô điều kiện, không hủy ngang cho chủ đầu tư bất cứ khoản tiền nào trong giới hạn số tiền bảo lãnh nêu trên khi có yêu cầu bồi thường của chủ đầu tư".

Các nội dung khác của bảo lãnh dự thầu đều đáp ứng yêu cầu của E-HSMT và E-HSDT của nhà thầu B được đánh giá là đáp ứng các nội dung theo quy định của E-HSMT.

Theo quy định tại Mẫu số 04A Chương IV E-HSMT ban hành kèm theo Thông tư số 22/2024/TT-BKHĐT ở nội dung ghi chú số (4) có quy định: "Trường hợp bảo lãnh dự thầu thiếu một hoặc một số nội dung cam kết nêu trên thì bị coi là điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư, bên mời thầu theo quy định tại Mục 18.3 E-CDNT và thư bảo lãnh được coi là không hợp lệ".

Ông Phương hỏi, bảo lãnh dự thầu của nhà thầu B thiếu nội dung như đã nêu trên có được coi là điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư, bên mời thầu theo quy định tại Mục 18.3 E-CDNT và đánh giá thư bảo lãnh không hợp lệ ngay mà không phải làm rõ hay không?

Trường hợp nội dung nêu trên không phải là điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư, bên mời thầu thì có được phép yêu cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung tài liệu đính chính của ngân hàng hay không?

Để bảo đảm thống nhất cách hiểu và thuận lợi cho bên mời thầu, chủ đầu tư trong quá trình tổ chức lựa chọn nhà thầu như đối với trường hợp nêu trên ông Phương đề nghị cơ quan có thẩm quyền cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn như thế nào là "gây bất lợi" cho chủ đầu tư, bên mời thầu.

Về vấn đề này, Bộ Tài chính có ý kiến như sau:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Nghị định số 24/2024/NĐ-CP ngày 27/2/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.

Trường hợp hồ sơ mời thầu có các nội dung làm hạn chế cạnh tranh theo quy định tại khoản 2 Điều 24 của Nghị định này thì các nội dung này không phải căn cứ để xem xét đánh giá hồ sơ dự thầu.

Theo quy định tại Mục 18.3 Chương I Mẫu E-HSMT gói thầu xây lắp qua mạng áp dụng phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ ban hành kèm theo Thông tư số 22/2024/TT-BKHĐT, bảo đảm dự thầu được coi là không hợp lệ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: có giá trị thấp hơn, thời gian có hiệu lực ngắn hơn so với yêu cầu quy định tại Mục 18.2 E-CDNT, không đúng tên đơn vị thụ hưởng, không có chữ ký (ký số đối với bảo lãnh dự thầu điện tử) hợp lệ, ký trước khi chủ đầu tư phát hành E-HSMT, có kèm theo các điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư, bên mời thầu (trong đó bao gồm việc không đáp ứng đủ các cam kết theo quy định tại Mẫu số 04A, Mẫu số 04B Chương IV).

Trường hợp áp dụng thư bảo lãnh hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm bảo lãnh thì thư bảo lãnh hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng trong nước hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trong nước, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký tên, đóng dấu (nếu có).

Theo đó, việc đánh giá bảo đảm dự thầu được coi là không hợp lệ khi thuộc một trong các trường hợp theo quy định nêu trên và thuộc trách nhiệm của tổ chuyên gia, bên mời thầu, chủ đầu tư.

Trường hợp thư bảo lãnh trong E-HSDT thiếu nội dung: "Chúng tôi cam kết thanh toán vô điều kiện, không hủy ngang cho chủ đầu tư bất cứ khoản tiền nào trong giới hạn số tiền bảo lãnh nêu trên khi có yêu cầu bồi thường của chủ đầu tư", tổ chuyên gia, bên mời thầu cần xác định sai khác trong bảo lãnh dự thầu của nhà thầu có gây bất lợi cho chủ đầu tư, bên mời thầu khi tịch thu bảo đảm dự thầu trong trường hợp nhà thầu vi phạm hay không để làm căn cứ đánh giá.

Chinhphu.vn