Công ty TNHH Vietnam Trusting AI có nhu cầu giới thiệu khách hàng cá nhân là người Việt Nam của Công ty đến một số tổ chức tín dụng để vay tiêu dùng.
Công ty hỏi, trường hợp sau khi Công ty thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì có quyền yêu cầu khách hàng hoàn trả phần nghĩa vụ bảo lãnh mà Công ty đã thực hiện cho tổ chức tín dụng thay khách hàng theo thỏa thuận bảo lãnh không?
Về vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời như sau:
Khoản 1 Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Điều 340 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Khoản 14 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (đã sửa đổi, bổ sung) quy định: “14. Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ tín dụng khác”.
Khoản 18 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận”.
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, Công ty nghiên cứu và thực hiện theo quy định của pháp luật.