Nhà đầu tư phải thành lập mới doanh nghiệp dự án
Ông Khánh phản ánh: Khoản 1 Điều 27 Nghị định 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT) (được sửa đổi một số điều tại Nghị định số 24/2011/NĐ-CP ngày 5/4/2011 của Chính phủ) quy định nhà đầu tư đăng ký kinh doanh để thành lập doanh nghiệp dự án hoặc bổ sung ngành, nghề kinh doanh trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (đối với Nhà đầu tư đã thành lập tổ chức kinh tế).
Tuy nhiên, khoản 1 Điều 3 Thông tư số 03/2011/TT-BKHĐT ngày 27/1/2011 hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 108/2009/NĐ-CP lại quy định nhà đầu tư phải thành lập mới doanh nghiệp dự án theo thủ tục quy định tại Điều 49 của Thông tư.
Ông Khánh đề nghị được giải đáp về sự không thống nhất nêu trên.
Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng nội dung kiến nghị của ông Khánh là xác thực. Tuy nhiên, việc Thông tư số 03/2011/TT-BKHĐT quy định "nhà đầu tư phải thành lập mới doanh nghiệp dự án" là để tạo ra một đầu mối thống nhất nhằm tăng cường công tác quản lý trong quá trình thực hiện dự án.
Trong trường hợp cụ thể nếu nhà đầu tư thấy rằng việc phải thành lập mới doanh nghiệp dự án không tạo được hiệu quả quản lý dự án cho nhà đầu tư thì vẫn áp dụng quy định của văn bản có tính chất pháp lý cao hơn.
Đề xuất dự án và báo cáo nghiên cứu khả thi là khác nhau
Theo cách hiểu của ông Khánh, đề xuất dự án quy định tại Điều 11 Nghị định 108/2009/NĐ-CP (được sửa đổi khoản 2 tại Nghị định số 24/2011/NĐ-CP) và báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án quy định tại khoản 1 Điều 13 Thông tư số 03/2011/TT-BKHĐT có nội dung giống nhau chỉ khác ở chỗ đề xuất dự án do nhà đầu tư lập còn báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức lập.
Như vậy, đối với những dự án do nhà đầu tư đề xuất đã được phê duyệt bổ sung vào danh mục dự án thì nhà đầu tư và cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều phải lập đề xuất dự án và báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án. Sau đó cơ quan nhà nước phải 2 lần thẩm định, 2 lần phê duyệt như nhau.
Theo ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Khoản 3 Điều 1 Nghị định số 24/2011/NĐ-CP ngày 5/4/2011 đã sửa đổi khoản 2 Điều 11 Nghị định số 108/2009/NĐ-CP về đề xuất dự án. Theo đó, đề xuất dự án gồm những nội dung quy định đối với báo cáo nghiên cứu tiền khả thi theo pháp luật về xây dựng và những nội dung quy định tại các điểm a, b, c, d, đ khoản 2 và các điểm a, b khoản 3 Điều 12 Nghị định này.
Qua đó, thấy rằng đề xuất dự án và báo cáo nghiên cứu khả thi là khác nhau và không có nội dung mâu thuẫn như kiến nghị của công dân.
Về thẩm quyền phê duyệt đề xuất dự án
Khoản 4 Điều 11 Nghị định 108/2009/NĐ-CP quy định các Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh tiếp nhận đề xuất dự án và tiến hành xem xét, phê duyệt đề xuất dự án theo quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 9 của Nghị định này.
Ông Khánh thắc mắc: Như vậy có phải các Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh sẽ phê duyệt đề xuất dự án đối với cả các dự án quan trọng quốc gia theo Nghị quyết của Quốc hội; các Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh phê duyệt đề xuất dự án còn Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi thuộc các dự án nhóm A, B, C?
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, khoản 4 Điều 11 Nghị định số 108/2009/NĐ-CP quy định "Các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiếp nhận Đề xuất dự án thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và tiến hành xem xét, phê duyệt Đề xuất dự án...".
Do vậy, đối với các dự án quan trọng quốc gia, các dự án này không thuộc phạm vi, quyền hạn của các Bộ, UBND cấp tỉnh do đó các cơ quan này không được phê duyệt.
Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, trong quá trình rà soát Nghị định số 108/2009/NĐ-CP, Nghị định số 24/2011/NĐ-CP ngày 5/4/2011, Thông tư số 03/2011/TT-BKHĐT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổng hợp các nội dung vướng mắc của các cơ quan, địa phương để tổng kết đánh giá lại. Qua đó, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ để sửa đổi cho phù hợp với thực tế.
Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng cảm ơn Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có văn bản giải đáp công dân qua Cổng TTĐT Chính phủ.
Phòng Thông tin phản ánh của tổ chức, công dân