Vũ khí sinh học - Ảnh minh họa
Bộ Quốc phòng cho biết, vũ khí hủy diệt hàng loạt là vũ khí có khả năng gây cho đối phương tổn thất lớn về sinh lực, phương tiện kỹ thuật, cơ sở kinh tế, quốc phòng, an ninh, môi trường sinh thái và gây tác động mạnh đến tâm lý, tinh thần của con người. Vũ khí hủy diệt hàng loạt gồm vũ khí sinh học, vũ khí hóa học, vũ khí hạt nhân và vũ khí phóng xạ. Vũ khí hủy diệt hàng loạt có thể trở thành những vũ khí nguy hiểm cho những quốc gia có mục đích xấu, những kẻ khủng bố hoặc các chủ thể phi nhà nước khác. Đặc biệt trong giai đoạn toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng như hiện nay, các công đoạn để nghiên cứu, chế tạo vũ khí hủy diệt hàng loạt đều trở nên dễ dàng hơn. Một người với kiến thức cơ bản về hóa học hay sinh học cũng có thể biết cách chế tạo những loại vũ khí này với số lượng lớn. Chúng có thể phát nổ ngay trên đường phố đông đúc hay trong một thùng rác bằng điều khiển từ xa.
Trong khi đó, khả năng phát tán của chúng rất khó kiểm soát, cũng như không có đủ biện pháp hiệu quả để bảo vệ một thành phố đông đúc khỏi một cuộc tấn công quy mô nhỏ, chưa nói đến những cuộc tấn công quy mô lớn.
Do tính chất đặc biệt nguy hiểm của vũ khí hủy diệt hàng loạt nên trong khuôn khổ Liên hợp quốc đã cho ra đời nhiều văn bản pháp lý quốc tế để phòng, chống phổ biến các vũ khí đó như: Công ước vũ khí sinh học, Công ước vũ khí hóa học, Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân và hầu hết các quốc gia trên thế giới đã tham gia và cam kết thực hiện.
Nghị quyết số 1540 ngày 28/4/2004 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (được thông qua theo Chương VII Hiến chương Liên hợp quốc) yêu cầu các quốc gia thành viên Liên hợp quốc ban hành và thực hiện các luật có hiệu lực thích hợp nhằm cấm các chủ thể phi nhà nước sản xuất, có được, sở hữu, phát triển, vận chuyển, chuyển giao hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân, hóa học hoặc sinh học và phương tiện mang và phát tán các vũ khí đó (Điều 2) và thực hiện các biện pháp hiệu quả để kiểm soát trong nước nhằm ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân, hóa học, sinh học và các phương tiện mang và phát tán các vũ khí đó (Điều 3).
Nhiều nước trên thế giới đã cụ thể hóa các quy định của Nghị quyết số 1540 trong hệ thống văn bản pháp luật quốc gia về phòng, chống cả 3 loại vũ khí hóa học, sinh học, hạt nhân và kiểm soát hàng hóa lưỡng dụng trong tất cả các hoạt động liên quan đến phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (sản xuất, có được, sở hữu, phát triển, vận chuyển, chuyển giao, sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt). Đa số các quy định nằm trong các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật về vũ khí sinh học (thực hiện Công ước vũ khí sinh học); luật về vũ khí hóa học (thực hiện Công ước vũ khí hóa học); luật về vũ khí hạt nhân (thực hiện các điều ước quốc tế về vũ khí hạt nhân); quy định về kiểm soát hàng hóa lưỡng dụng (thực hiện các điều ước quốc tế, thỏa thuận đa phương về kiểm soát vật liệu, thiết bị, công nghệ có thể được sử dụng để thiết kế, phát triển, sản xuất, sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt).
Tại Đông Nam Á, nhiều quốc gia như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Campuchia đã ban hành các luật liên quan đến phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Với tư cách là một thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã là thành viên của nhiều điều ước quốc tế liên quan đến phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt như Nghị định thư về cấm sử dụng trong chiến tranh các loại hơi độc, hơi ngạt hoặc các loại tương tự khác, các phương tiện chiến tranh sinh học năm 1925; Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân năm 1963; Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1968; Công ước vũ khí sinh học năm 1972, Công ước về bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân năm 1979, Công ước vũ khí hóa học năm 1993, Công ước quốc tế về ngăn chặn hành vi khủng bố hạt nhân năm 2005.
Để thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, các điều ước quốc tế, các thỏa thuận đa phương nêu trên, Việt Nam đã xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như: Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008; Luật Hóa chất năm 2007, Nghị định số 33/2024/NĐ-CP năm 2024; Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007; Luật Hải quan năm 2014; Luật Phòng chống rửa tiền năm 2022; Nghị định số 81/2019/NĐ-CP năm 2019.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật kể trên, Nghị định số 81/2019/NĐ-CP ngày 11/11/2019 của Chính phủ về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (sau đây gọi tắt là Nghị định số 81/2019/NĐ-CP) là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên điều chỉnh trực tiếp, đầy đủ về phòng, chống phổ biến cả 4 loại vũ khí sinh học, hóa học, hạt nhân và phóng xạ.
Nghị định gồm 6 chương với 43 điều, quy định về nguyên tắc, chính sách, biện pháp, lực lượng, phương tiện phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Trong đó, có các quy định về những vấn đề quan trọng: Cơ quan đầu mối quốc gia Việt Nam và Đơn vị đầu mối về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; Phối hợp giữa Cơ quan đầu mối quốc gia với Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo phòng, chống khủng bố quốc gia, Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền quốc gia và Đơn vị đầu mối trong phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; Lực lượng, phương tiện phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; Các biện pháp phòng ngừa phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (như kiểm soát tác nhân sinh học, hóa học, vật liệu phóng xạ, hạt nhân, công nghệ và phương tiện mang và phát tán, vật liệu liên quan đến vũ khí hủy diệt hàng loạt); Quản lý khu vực tài chính và hoạt động kinh doanh ngành nghề phi tài chính; Kiểm soát khu vực biên giới và trên biển; Các phương án phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; Các biện pháp chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (phát hiện hoạt động phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, chống phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng và thực hiện Nghị quyết số 1540 của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt); Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Đối tượng áp dụng của Nghị định là: Công dân, cơ quan, tổ chức của Việt Nam; tàu thuyền mang cờ quốc tịch Việt Nam và tàu bay mang quốc tịch Việt Nam dù đang ở bất cứ nơi nào; tổ chức quốc tế, tổ chức nước ngoài, người nước ngoài cư trú, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Việc Chính phủ ban hành Nghị định số 81/2019/NĐ-CP theo đề nghị của Bộ Quốc phòng là nỗ lực lớn của Việt Nam nhằm tạo khung pháp lý để thực hiện có hiệu quả các nghĩa vụ quốc gia về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và Nghị quyết số 1540 của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Trong quá trình thi hành Nghị định số 81/2019/NĐ-CP giai đoạn 2019 - 2024, Bộ Quốc phòng - Cơ quan đầu mối quốc gia đã tham mưu giúp Chính phủ và hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương thực hiện các nhiệm vụ đúng quy định và hiệu quả. Qua đó, đã nâng cao nhận thức và kiến thức của bộ, ngành, địa phương và người dân về công tác phòng, chống phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực phòng ngừa, ứng phó tình huống phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Đến nay, chưa để xảy ra bất cứ tình huống nào liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Bên cạnh những kết quả rất quan trọng đã đạt được như đã nêu ở trên, việc thi hành Nghị định số 81/2019/NĐ-CP thời gian qua cũng còn một số tồn tại hạn chế nhất định cần phải khắc phục trong thời gian tới.
Để khắc phục tồn tại, hạn chế của Nghị định số 81/2019/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, qua đó giúp Việt Nam thực hiện tốt các nghĩa vụ phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và Nghị quyết số 1540 của Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc, việc ban hành Luật Phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt là rất cần thiết.
Bộ Quốc phòng đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt với 5 chính sách.
Chính sách 1: Hoàn thiện quy định chung về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Chính sách 2: Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống phổ biến đối với từng loại vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Chính sách 3: Tăng cường phòng, chống vũ khí hủy diệt hàng loạt thông qua kiểm soát biên giới và kiểm soát hàng hóa lưỡng dụng.
Chính sách 4: Hoàn thiện các quy định về phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Chính sách 5: Nâng cao năng lực và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước trong công tác phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.