Sau cuộc thảo luận về khai thác bauxite Tây Nguyên trên Vietnamnet vào chiều 27/10/2010, có độc giả liên lạc với Bộ TN&MT để hỏi thêm một số chi tiết về các câu trả lời củaTS Bùi Cách Tuyến, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.Báo Tài nguyên & Môi trường đăng nguyên văn các câu hỏi và câu trả lời độc giả nhằm giúp bạn đọc có thêm thông tin về Bauxite Tây nguyên.
1. "Ở vùng Bắc Brazil, bauxite cũng tương tự Việt Nam về tính chất nghĩa là gì?”
- Quặng bauxite có 3 loại: gibbsite, bohemia và diaspora. Ở vùng mỏ Juruti và Trombetas ở phía bắc Brazil quặng bauxite là loại gibbsite cùng tính chất với bauxite ở Tây Nguyên cũng là loại gibbsite. Tuy về thành phần hóa, lý có khác nhau đôi chút song về cơ bản là tương tự nhau.
2 “Lượng mưa ở Tây Nguyên có tương tự lượng mưa ở vùng Bắc Brazil không?”
-Tại Brazil, theo thông tin từ lãnh đạo mỏ Juruti cung cấp, lượng mưa trung bình năm ở Juruti là 2600 mm. Theo website “worldweather.wmo.int”, lượng mưa trung bình năm ở thành phố São Luis (cách vùng mỏ Juruti 1313 km) là2325 mm.
Tại Việt Nam, theo tài liệu của Viện Khí tượng Thủy văn và Môi trường (Bộ TN&MT), lượng mưa trung bình 55 năm (1955-2010) ở Bảo Lộc là 2781 mm, lượng mưa trung bình 31 năm (1979-2010) ở Đaknong là 2572 mm.
Ở Đaknong, trong thời gian 31 năm, thống kê cho thấy lượng mưa cao nhất đo được trong các tháng mùa mưa phân bố như sau: tháng 6: 2 lần, tháng 7: 1 lần, tháng 8: 18 lần, tháng 9:10 lần. Trong 18 lần của tháng 8, có 3 năm 1978, 1984 và 2006 lượng mưa lớn hơn 700 mm (17%). Có 15 năm lượng mưa biến động trong khoảng hơn 400 mm đến hơn 600 mm (83%).
Ở Bảo Lộc, trong thời gian 55 năm, thống kê cho thấy, lượng mưa cao nhất đo được trong các tháng mùa mưa phân bố như sau: tháng 7: 9 lần, tháng 8: 31 lần, tháng 9:13 lần, tháng 10; 2 lần. Trong 31 lần của tháng 8, có 6 năm 1978, 1984, 2000, 2001, 2002 và 2006 lượng mưa lớn hơn 700 mm (20%). Có 25 năm lượng mưa biến động trong khoảng hơn 300 mm đến hơn 600 mm (80%).
3. "Tổ kỹ thuật và Hội đồng thẩm định có khoảng 80% là các nhà khoa học, họ thuộc những cơ quan khoa học nào, cách làm việc ra sao?"
-Bộ TN&MT đã thành lập Tổ Hỗ trợ kỹ thuật thẩm định và Hội đồng Thẩm định đặc biệt, với số lượng gấp 3 lần số lượng thành viên Hội đồng bình thường,hầu hết là các nhà khoa học đầu ngành, uy tín, trách nhiệm, bao trùm hầu hết các lĩnh vực liên quan tới các vấn đề môi trường của Dự án.
Tổ Kỹ thuật đi khảo sát thực địa, xem xét, đánh giá trước nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường của Dự án và tham gia đóng góp ý kiến cho Hội đồng thẩm định, giúp Hội đồng nhận diện các nguồn gây ô nhiễm, tính đặc thù của Dự án, đánh giá toàn diện tác động và các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm hiệu quả, khả thi. Tổ hỗ trợ kỹ thuật còn có trách nhiệm giám sát các nội dung mà Chủ đầu tư phải bổ sung, chỉnh sửa theo yêu cầu của Hội đồng thẩm định.
Thành viên Tổ kỹ thuật 15 người, Thành viên Hội đồng Thẩm định có 21 người. Các nhà khoa học là các GS, PGS, TSKH, TS, ThS có chuyên môn sâu trong các lĩnh vực môi trường mỏ và khai khoáng, tuyển khoáng, hóa học, công nghệ xử lý nước, xử lý chất thải rắn, khí thải, địa chấtmôi trường, địa chất công trình, địa chất thủy văn, xã hội học, sinh học, khí tượng, khí tượng thủy văn thuộc những cơ quan sau:Đại học Mỏ Địa chất, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Xây dựng Hà Nội, Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Hóa học thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam, Viện Nghiên cứu Môi trường và Phát triển bền vững thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Trung tâm Công nghệ môi trường và Phát triển bền vững, Hội Khoa học Công nghệ mỏ Việt Nam, Viện Kỹ thuật nước và Công nghệ môi trường thuộc Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, Viện Công nghệ biển, Khí quyển và Môi trường .
4. “Hoàn thổ lớp đất 2-3m có đủ độ dày để trồng trọt tiếp hay không?”
- Vùng khai thác bauxite thường là đồi bát úp. Chiều dày lớp quặng bauxít trung bình khoảng 2-4m (dày ởphần đỉnh đồi và giảm dần ở phần sườn đồi). Chiều dày lớp phủ trung bình khoảng 1,5-2m (mỏng ởphần đỉnh đồi và tăng dần ở phần sườn đồi). Phần lớp đất dưới đáy thân quặng thường là lớp sét litoma (rất thuận lợi cho công tác hoàn thổ phục hồi môi trường). Các khu vực khe hoặc các thung lũng hầu như không có quặng.
Công nghệ khai thác áp dụng là công nghệ khai thác lộ thiên và khai thác theo dạng cuốn chiếu (tương tự như công nghệ khai thác bauxit ở các nước Australia, Brazin,....). Khu mỏ được chia làm nhiều khu vực khai thác và khai thác dứt điểm khu này mới chuyển sang khai thác khu khác. Trình tự khai thác ở từng khu cụ thể như sau: đầu tiên tiến hành bóc lớp đất mặt và chuyển sang các bãi thải tạm thời trong khu mỏ. Tiếp theo là tiến hành khai thác quặng bauxit ở khu vực đã bóc lớp đất mặt. Sau đó chuyển lớp đất mặt ở bãi chứa tạm thời vào khu vực khai trường đã kết thúc khai thác với chiều dày khoảng 2-3m để phục vụ cho công tác hoàn thổ phục hồi môi trường.
Lớp đất hoàn thổ khoảng 2 m ở Tây Nguyên là đủ dày để trồng được nhiều loại cây. Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Quang Hưng, chuyên gia về cây cà phê, TS Phạm Hồng Đức Phước, chuyên gia về cây ca cao, TS PhạmMinh Tâm, chuyên gia về ngành rau quả, ông Phạm Kiến Nghiệp, chuyên gia về cây chè (trà), thuốc lá đã cho biết như sau:
- Các loại rau cũng chỉ cần lớp đất dày tối đa 0,6 m, trừ họ bầu bí có thể xuống sâu 1 m,
- Cây cà phê bộ rễ phân bố sâu 1-1,6 m là phổ biến, chiều ngang thường vươn xa theo tán lá,
- Cây ca cao hiện nay cả nước trồng hơn 18.000 ha, trong đó hơn một nửa ở Tây Nguyên, chiều sâu phân bố của rễ ca cao là 1,5 m, chiều ngang khoảng 0,5-0,7 m,
- Cây chè (trà) có rễ chính trung bình phân bố đến độ sâu 0,5 m (khi trà trồng bằng cành), có rễ cọc đến độ sâu 1m (khi trà trồng bằng hạt)các rễ nhánh phân bố trong vòng 0,3 m.
- Sau khi hoàn thổ, do lớp bauxite đã được bóc, nhiều loại cây thân gỗ lớn có bộ rễ sâu sẽ thích ứng (trước đây không sống đượ̣c do có lớp bauxite ngăn cách).
Hiện nay, TKV đã thành lập Trung tâm Lâm sinh để nghiên cứu cụ thể loại cây phù hợp với đặc điểm khu vực và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đồng bào Tây Nguyên.
5 “Khi hoàn thổ thì sự thay đổi địa hình diễn ra thế nào?”
-Quặng bauxit dày ở phần đỉnh đồi và giảm dần khi thấp dần xuống phần sườn đồi (thường quặng bauxit đạt chất lượng và đạt chiều dày công nghiệp chỉ từ lưng chừng đồi đến đỉnh đồi. Các khu vực khe hoặc các thung lũng hầu như không có quặng). Khi tiến hành khai thác và hoàn thổ chủ yếu là hạ thấp phần đỉnh đồi là chính, tạo ra địa hình mới bằng phẳng hơn (cao độ địa hình sau khi hoàn thổ có thể thấp hơn địa hình ban đầu khoảng 2-4 m do khai thác lớp quặng bauxit) và do có độ cao nên không tạo ra các vùng ngập nước, vấn đề là có kế hoạch làm mặt bằng phù hợp thì việc trồng cây gây rừng hoặc canh tác vẫn diễn ra bình thường.
Trong quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã yêu cầu TKV phải thực hiện đầy đủ quy trình đóng cửa hồ bùn đỏ, hồ quặng đuôi, bãi thải xỉ than và phục hồi môi trường từng phần theo tiến độ vận hành Dự án; tổ chức nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp kỹ thuật, sử dụng các giống cây phù hợp cho việc cải tạo, phục hồi môi trường của Dự án; Ngoài ra, theo Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg ngày 29 tháng 5 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ, TKV phải lập Dự án cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác mỏ của Dự án và thực hiện việc ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ thẩm định rất kỹ dự án này
6 “Khu vực hứng nước chảy vào vị trí làm hồ chứa bùn đỏ rộng bao nhiêu?”
- Khu vực xây dựng hồ bùn đỏ nằm trong thung lũng, xung quanh có đồi bát úp bao bọc và chỉ có một hướng thoát nước.
Thung lũng này chỉ tiếp nhận nước mưa chảy tràn từ phần sườn đồi nằm trong phạm vi giữa các đường phân thủy của những ngọn đồi bao bọc xung quanh bao xung quanh (diện tích khoảng 300-400 ha). Thung lũng không tiếp nhận nước từ các lưu vực khác đổ tới. Trong quá trình thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường, Hội đồng Thẩm định đã yêu cầu Chủ đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước bao quanh sườn đồi, đảm bảo nước mưa không chảy tràn vào hồ. Hồ bùn đỏ chỉ tiếp nhận nước mưa rơi trực tiếp xuống diện tích mặt hồ.
P.V (biên tập)