![]() |
Ảnh minh họa |
Theo Bộ Y tế, trên thế giới các sản phẩm dinh dưỡng có chứa sữa dành cho trẻ dưới 6 tuổi rất đa dạng về tên gọi, chủng loại, nhưng tên gọi chung của nhóm sản phẩm dinh dưỡng công thức là cộng thêm tên thương mại của các nhà sản xuất.
Nhằm bảo đảm chất lượng, an toàn đối với các loại sản phẩm này, thực hiện Luật An toàn thực phẩm, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật và Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Bộ Y tế đã ban hành các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCKT) phân nhóm sản phẩm làm căn cứ cho việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với từng loại sản phẩm.
Cụ thể, có 4 QCKT phân nhóm sản phẩm gồm: Các sản phẩm sữa dạng bột (QCVN 5-2:2010/BYT) có hiệu lực từ 1/1/2011; sản phẩm dinh dưỡng công thức cho trẻ đến 12 tháng tuổi (QCVN 11-1:2012/BYT); sản phẩm dinh dưỡng công thức với mục đích y tế đặc biệt cho trẻ đến 12 tháng tuổi (QCVN 11-2:2012/BYT); sản phẩm dinh dưỡng công thức với mục đích ăn bổ sung cho trẻ từ 6 đến 36 tháng tuổi (QCVN 11-3:2012/BYT). Trong đó, 3 QCKT sau có hiệu lực từ ngày 1/6/2013.
Các QCKT này được xây dựng trên cơ sở tiêu chuẩn kỹ thuật của Ủy ban Tiêu chuẩn hóa thực phẩm quốc tế (CODEX), được xây dựng hài hòa với tiêu chuẩn của ASEAN. Quá trình xây dựng được thảo luận đóng góp ý kiến rộng rãi của các tổ chức, cá nhân, các cơ quan quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thực phẩm, các hiệp hội có liên quan của Việt Nam.
Các QCKT này cũng đã được gửi cho Văn phòng SPS (Kiểm dịch vệ sinh động thực vật) và TBT (các rào cản kỹ thuật) để lấy ý kiến các quốc gia thành viên WTO theo đúng thông lệ quốc tế. Riêng đối với sản phẩm dinh dưỡng cho trẻ từ 3-6 tuổi (36 tháng tuổi trở lên), Ủy ban CODEX không đưa ra tiêu chuẩn riêng và Việt Nam là nước thành viên của CODEX nên cũng không xây dựng tiêu chuẩn riêng cho sản phẩm này.
Ngay sau khi ban hành các quy chuẩn kỹ thuật, Bộ Y tế đã tổ chức hướng dẫn triển khai thực hiện cho các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh, các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan và đăng tải trên các trang thông tin điện tử theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật.
Trước đó, Bộ Y tế cũng đã có công văn gửi Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) thông báo về thời hạn hiệu lực của các QCKT nói trên và đề nghị Cục Quản lý giá xem xét và áp giá, đồng thời cung cấp danh mục các sản phẩm này đã công bố tại Cục An toàn thực phẩm để các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước theo quy định.
Tóm lại, về bản chất, các sản phẩm thuộc diện điều chỉnh trong 3 QCKT nêu trên là các sản phẩm thuộc nhóm sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi theo quy định tại Luật Giá.
Bộ Y tế cũng cho biết, việc quy định sữa thuộc mặt hàng bình ổn giá đã được thực hiện từ năm 2008. Tuy nhiên, từ ngày 1/1/2013 khi Luật Giá có hiệu lực thì việc bình ổn giá đối với mặt hàng sữa chỉ quy định đối với sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Chính vì vậy, Bộ Y tế khẳng định, việc Bộ Y tế ban hành QCKT đối với sản phẩm sữa bột, sản phẩm dinh dưỡng dành cho trẻ nhỏ không gây hiểu lầm, cũng như không làm tăng giá sản phẩm này.
Trước đó, để tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý giá thực hiện việc bình ổn giá và tăng cường trao đổi thông tin giữa các cơ quan, Bộ Y tế đã có công văn số 5560/BYT-ATTP gửi Bộ Tài chính về việc phân loại sản phẩm thuộc danh mục phải thực hiện quản lý giá.
Theo công văn này, sản phẩm dinh dưỡng công thức cho trẻ từ 0-36 tháng tuổi; sữa và sản phẩm dinh dưỡng có chứa sữa được bổ sung hoặc không bổ sung vi chất dinh dưỡng nhưng không theo công thức đã quy định trong các QCKT có công bố cho trẻ em dưới 6 tuổi đều thuộc Danh mục hàng hóa quản lý giá.
Bộ Y tế đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo Bộ Tài chính và UBND các tỉnh, thành phố tăng cường thực hiện quản lý bình ổn giá đối với mặt hàng sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi để trẻ em Việt Nam được tiếp cận với những sản phẩm an toàn với giá hợp lý, đồng thời đề nghị các bộ, ngành tăng cường phối hợp trao đổi giữa các cơ quan để cập nhật thông tin và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn sau khi Nghị định hướng dẫn Luật Giá được ban hành.
Thúy Hà