In bài viết

Chế độ với người bị tai nạn lao động khi làm việc ngoài giờ

(Chinhphu.vn) - Ông Hoàng Đình Thạch là công nhân điện của 1 Công ty cổ phần tại Hà Nội . Ngoài giờ làm việc, ông Thạch được điều động đi đấu nối điện cho công ty và bị tai nạn điện giật, ngã rơi từ trên cột cao 6m xuống, gãy xương đùi, chấn thương vùng đầu, vùng vai. Ông Thạch muốn biết, ông có được hưởng chế độ tai nạn lao động không?

22/07/2011 15:10

Câu hỏi của ông Thạch được Luật sư Lê Văn Đài, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội trả lời như sau:

Điều 105 Bộ luật Lao động quy định, tai nạn lao động (TNLĐ) là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động (NLĐ) hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.

Theo quy định tại  Điểm b, khoản 1, Điều 39 Luật Bảo hiểm xã hội và hướng dẫn tại Khoản 2, Điều 19 Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ thì trường hợp NLĐ bị tai nạn ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động (NSDLĐ) được hưởng chế độ TNLĐ.

NSDLĐ có trách nhiệm bồi thường

Trách nhiệm của NSDLĐ khi có NLĐ bị TNLĐ được quy định tại Khoản 2 Điều 105; Khoản 2, Khoản 3 Điều 107, Điều 143 Bộ Luật Lao động, cụ thể:

- Người bị TNLĐ phải được cấp cứu kịp thời và điều trị chu đáo.

- Trong thời gian NLĐ nghỉ việc để chữa trị vì tai nạn lao động NSDLĐ phải trả đủ lương.

- NSDLĐ phải chịu toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị xong cho người bị TNLĐ. NLĐ được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội về TNLĐ. Nếu doanh nghiệp chưa tham gia loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc, thì NSDLĐ phải trả cho NLĐ một khoản tiền ngang với mức quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội.

- NSDLĐ có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) cho NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người chết do TNLĐ mà không do lỗi của NLĐ. Trong trường hợp do lỗi của NLĐ thì cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất cũng bằng 12 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có).

Người bị TNLĐ được giám định mức suy giảm khả năng lao động

Sau khi điều trị, tuỳ theo mức độ suy giảm khả năng lao động do TNLĐ, NLĐ được giám định và xếp hạng thương tật để hưởng trợ cấp một lần hoặc hàng tháng do quỹ bảo hiểm xã hội trả.

Đồng thời, theo quy định tại Khoản 1 Điều 41 Luật Bảo hiểm xã hội thì NLĐ bị TNLĐ được giám định hoặc giám định lại mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các trường hợp sau: Sau khi thương tật đã được điều trị ổn định; hoặc sau khi thương tật tái phát đã được điều trị ổn định.

Các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội

Quy định về trợ cấp một lần, trợ cấp hàng tháng, trợ cấp phục vụ, thời điểm nhận trợ cấp áp dụng theo các Điều 42, 43, 44, 46 Luật Bảo hiểm xã hội:

- Trợ cấp 1 lần: Trường hợp NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp 1 lần. Mức trợ cấp 1 lần như sau: Suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng 5 tháng lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 tháng lương tối thiểu chung. Ngoài mức trợ cấp này, NLĐ còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ 1 năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3 tháng tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.

- Trợ cấp hàng tháng: Trường hợp NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng tháng. Mức trợ cấp hằng tháng như sau: Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương tối thiểu chung.

Ngoài mức trợ cấp này, hằng tháng còn được hưởng thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ 1năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.

- Trợ cấp phục vụ: Trường hợp NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống hoặc mù hai mắt hoặc cụt, liệt hai chi hoặc bị bệnh tâm thần thì ngoài mức hưởng trợ cấp hằng tháng nêu trên, hằng tháng còn được hưởng trợ cấp phục vụ bằng mức lương tối thiểu chung.

- Thời điểm hưởng trợ cấp được tính từ tháng NLĐ điều trị xong, ra viện. Trường hợp thương tật  tái phát, NLĐ được đi giám định lại mức suy giảm khả năng lao động thì thời điểm hưởng trợ cấp mới được tính từ tháng có kết luận của Hội đồng Giám định y khoa.

Trường hợp ông Hoàng Đình Thạch, bị TNLĐ ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của NSDLĐ được hưởng chế độ TNLĐ.

Theo quy định, công ty phải cử người đưa ông đi cấp cứu kịp thời; phải trả đủ lương cho ông trong thời gian ông nghỉ việc để chữa trị; phải chịu toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi ông được điều trị xong.

Sau khi điều trị xong, ông Thạch sẽ được giám định và xếp hạng thương tật để hưởng trợ cấp. Nếu ông suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được bảo hiểm xã hội trả trợ cấp 1 lần; hoặc từ 31% trở lên thì  được bảo hiểm xã hội trả trợ cấp hàng tháng;

Nếu suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên thì bảo hiểm xã hội còn trợ cấp phục vụ cho người chăm sóc ông. Đồng thời, ông được công ty bồi thường ít nhất bằng 30 tháng lương. Trong trường hợp ông có lỗi thì cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 12 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có).

Luật sư Lê Văn Đài

VPLS Khánh Hưng – Đoàn Luật sư Hà Nội

* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.