Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 156/CĐ-TTg ngày 3/9/2025 gửi Chủ tịch UBND các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh; Bộ trưởng các Bộ: Quốc phòng, Công an, Giáo dục và Đào tạo về việc tập trung khắc phục cơ sở giáo dục bảo đảm điều kiện khai giảng năm học mới cho học sinh.
Các đơn vị trường học trên địa bàn xã Hưng Nguyên (tỉnh Nghệ An) khắc phục thiệt hại sau bão số 5.
Ngày 29 tháng 8 năm 2025, Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 151/CĐ-TTg về việc khẩn trương khắc phục cơ sở giáo dục, y tế bị thiệt hại do thiên tai, bảo đảm các điều kiện tổ chức lễ khai giảng năm học mới đúng thời gian quy định. Tuy nhiên, theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (văn bản số 1507/BC-BGDĐT ngày 01 tháng 9 năm 2025) và thông tin trên bản tin thời sự của Đài Truyền hình Việt Nam (trưa ngày 03 tháng 9 năm 2025) công tác khắc phục cơ sở giáo dục ở một số địa phương, nhất là ở Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Nghệ An vẫn chưa hoàn thành trong khi thời điểm tổ chức khai giảng năm học mới đã cận kề.
Để bảo đảm tổ chức Lễ khai giảng năm học mới cho học sinh, nhất là tại các khu vực bị ảnh hưởng do thiên tai vừa qua, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh chỉ đạo rà soát cụ thể công tác khắc phục các cơ sở giáo dục bị ảnh hưởng do bão số 5 và các đợt thiên tai vừa qua trên địa bàn; tiếp tục huy động tối đa nguồn lực, lực lượng (nhất là lực lượng quân đội, công an, đoàn viên thanh niên) để đẩy nhanh tiến độ, thần tốc hơn nữa nhằm sửa chữa, khắc phục xong tất cả các trường, điểm trường bị tốc mái, hư hại, không bảo đảm an toàn, sửa chữa bàn ghế, bổ sung sách vở, thiết bị giảng dạy và đồ dùng học tập cho học sinh; bảo đảm an toàn, đủ điều kiện tổ chức khai giảng và điều kiện học tập cơ bản cho học sinh, không được để học sinh thiếu trường, thiếu lớp, thiếu thày cô, thiếu sách vở, đồ dùng học tập. Đối với các trường, điểm trường bị sập đổ, hư hỏng nặng chưa khôi phục xong hoặc không bảo đảm an toàn phải có phương án bố trí địa điểm khai giảng, học tập tạm thời cho học sinh. Hoàn thành chậm nhất trong ngày 04 tháng 9 năm 2025. Báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện trong ngày 04 tháng 9 năm 2025.
2. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục chỉ đạo, đôn đốc ngành giáo dục các địa phương, nhất là các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh rà soát, chủ động tham mưu cho cấp ủy và chính quyền địa phương chỉ đạo, huy động lực lượng, nguồn lực để khắc phục nhanh nhất các cơ sở giáo dục bị ảnh hưởng do thiên tai; có phương án chủ động, kịp thời hỗ trợ sách vở, thiết bị giảng dạy, đồ dùng học tập đối với các cơ sở giáo dục bị thiệt hại do thiên tai theo đề nghị của địa phương để bảo đảm điều kiện học tập cho học sinh ngay đầu năm học mới. Tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện trong ngày 04 tháng 9 năm 2025.
3. Bộ trưởng các Bộ: Quốc phòng, Bộ Công an tiếp tục chỉ đạo các đơn vị quân đội, công an đóng trên địa bàn huy động tối đa lực lượng hỗ trợ xử lý vệ sinh trường lớp, sửa chữa cơ sở giáo dục theo đề nghị của địa phương.
4. Giao Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long tiếp tục chỉ đạo, đôn đốc các Bộ, ngành và địa phương có liên quan triển khai thực hiện công điện này.
5. Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ được giao, kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng phụ trách những vấn đề đột xuất, phát sinh.
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 268/NQ-CP về tình hình triển khai thực hiện và vận hành mô hình chính quyền địa phương 02 cấp.
Tình hình vận hành mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp
Nghị quyết nêu rõ, thời gian qua, việc sắp xếp và vận hành chính quyền địa phương 02 cấp được đánh giá là cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy, sắp xếp lại giang sơn để có hành trang mới, khí thế mới bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, giàu mạnh, văn minh, phồn vinh, thịnh vượng.
Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ bảo đảm tổ chức bộ máy của đơn vị hành chính 02 cấp hoạt động ổn định, thông suốt
Việc triển khai mô hình chính quyền địa phương 02 cấp đã được Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt và các bộ, ngành, địa phương nghiêm túc thực hiện, đạt nhiều kết quả quan trọng, tạo bước chuyển rõ nét trong tổ chức và vận hành bộ máy hành chính nhà nước. Việc sắp xếp và vận hành chính quyền địa phương 02 cấp đã nhận được sự đồng thuận chung của cả nước, sự ủng hộ của nhân dân, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, đạt được kết quả tích cực, cơ bản đang đi vào ổn định, đúng hướng, trúng, đúng với nguyện vọng của nhân dân, giải quyết khó khăn, vướng mắc đã tồn tại nhiều năm qua.
Về thể chế, từ ngày 01 tháng 6 năm 2025 đến ngày 23 tháng 8 năm 2025, Chính phủ đã ban hành 112 Nghị định, Nghị quyết quy phạm pháp luật (tính riêng từ ngày 01 tháng 8 năm 2025 đến ngày 23 tháng 8 năm 2025, Chính phủ đã ban hành 16 Nghị định) cùng nhiều văn bản hướng dẫn, tập trung vào các lĩnh vực then chốt như quốc phòng, thanh tra, môi trường, tài chính, giáo dục, khoa học, công nghệ, tổ chức bộ máy, chế độ công vụ... tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho mô hình mới. Đây là cơ sở quan trọng để các địa phương thống nhất triển khai, bảo đảm tính hợp pháp, hợp hiến và hiệu lực quản lý nhà nước.
Về tổ chức bộ máy, các địa phương đã cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, kiện toàn với 465 cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, 9.916 phòng chuyên môn cấp xã được thành lập, đi vào hoạt động ổn định. Cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ nhiệm vụ được rà soát, bổ sung; nhiều xã, phường được trang bị thêm trụ sở, phương tiện làm việc, đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành tại cơ sở.
Về công tác cán bộ, việc giải quyết chế độ, chính sách cho đội ngũ sau sắp xếp được triển khai kịp thời, minh bạch. Đến ngày 19 tháng 8 năm 2025, cả nước có 94.402 người đã có quyết định nghỉ việc; tổng số người đang trình cấp có thẩm quyền phê duyệt kinh phí và số người đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt kinh phí là 81.410 người; trong đó 75.710 người đã được giải quyết kinh phí theo quy định. Điều này thể hiện sự quan tâm, chăm lo thiết thực của Đảng, Nhà nước, bảo đảm quyền lợi cho cán bộ, công chức, viên chức, đồng thời tạo sự đồng thuận, ổn định trong đội ngũ.
Về đào tạo, bồi dưỡng, các bộ, ngành đã tổ chức hội nghị tập huấn, với hơn 3.300 điểm cầu trực tuyến trên toàn quốc, tập trung phổ biến, cập nhật quy định mới, nâng cao năng lực quản lý cho hàng chục nghìn cán bộ, công chức, viên chức các cấp. Nội dung bao trùm các lĩnh vực pháp luật, tài chính, giáo dục, lao động, ngoại giao, thương mại, nông nghiệp, môi trường, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, y tế, văn hóa, thể thao và du lịch..., góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả trong thực thi công vụ.
Về cải cách hành chính và chuyển đổi số, từ 01 tháng 7 năm 2025 đến ngày 23 tháng 8 năm 2025, tổng số hồ sơ tiếp nhận của 34 tỉnh, thành phố là 6,5 triệu hồ sơ thủ tục hành chính, trong đó cấp xã 4,8 triệu hồ sơ thủ tục hành chính; có 73,8% hồ sơ trực tuyến; 80% tổng số hồ sơ tiếp nhận đã được trả kết quả cho người dân, trong đó có 72% hồ sơ đúng hoặc trước hạn; một số địa phương có số lượng hồ sơ lớn như: Thành phố Hồ Chí Minh (753 nghìn hồ sơ), Hà Nội (500 nghìn hồ sơ), Hải Phòng (325 nghìn hồ sơ), Đồng Nai (320 nghìn hồ sơ), Nghệ An (270 nghìn hồ sơ), Thanh Hoá (269 nghìn hồ sơ), Đắk Lắk (251 nghìn hồ sơ)... Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa, liên thông dữ liệu quốc gia đã góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả, giảm thời gian, chi phí cho người dân, doanh nghiệp.
Về tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, dư luận xã hội đánh giá tích cực, đồng tình với chủ trương, chính sách đổi mới. Nhân dân, cán bộ, đảng viên bày tỏ niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Chính phủ trong xây dựng mô hình chính quyền 02 cấp.
Những kết quả đạt được đã khẳng định tính đúng đắn, kịp thời của chủ trương cải cách, tạo nền tảng vững chắc để tiếp tục hoàn thiện, vận hành hiệu quả mô hình chính quyền địa phương 02 cấp trong thời gian tới.
Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế, khó khăn cần tập trung khắc phục như: (1) Việc kiện toàn tổ chức bộ máy và nhân sự ở địa phương sau sáp nhập còn gặp khó khăn. Nhìn chung, nguồn nhân lực ở cấp cơ sở hiện nay vừa thừa, vừa thiếu, vừa hạn chế về chất lượng chuyên môn lẫn kỹ năng công nghệ.
(2) Còn nhiều hạn chế về hạ tầng cơ sở: Một số địa phương còn thiếu hoặc có trụ sở xuống cấp, chật hẹp, phân tán; trung tâm hành chính công xa, chưa thuận lợi cho người dân. Việc xử lý trụ sở dôi dư theo phương án chuyển đổi công năng thành các cơ sở y tế, giáo dục, công trình công cộng còn gặp nhiều khó khăn. Còn nhiều cơ sở nhà, đất phải xử lý, tiến độ xử lý còn chậm.
(3) Cơ chế tài chính - ngân sách chưa theo kịp mô hình mới trong khi địa bàn quản lý rộng hơn. Việc phân công nhiệm vụ chi ngân sách sau sắp xếp còn nhiều vướng mắc, một số nhiệm vụ được giao chưa thống nhất giữa các đơn vị.
(4) Hạ tầng công nghệ thông tin từ trung ương đến địa phương còn thiếu đồng bộ, gây khó khăn cho việc liên thông, chưa bảo đảm dịch vụ công toàn trình.
(5) Công tác tuyên truyền, phổ biến về mô hình chính quyền địa phương 02 cấp ở vài nơi chưa thật sự sâu rộng; một bộ phận nhân dân, cán bộ, công chức vẫn chưa quen với cách thức vận hành mới.
Nguyên nhân chủ yếu là do việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy và bố trí nhân sự trong thời gian ngắn dẫn đến tình trạng nơi thừa, nơi thiếu cán bộ, chất lượng và kỹ năng của đội ngũ công chức ở cấp xã, nhất là ở các lĩnh vực đất đai, tài chính, pháp lý, công nghệ thông tin, quy hoạch, xây dựng còn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu nhiệm vụ. Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật ở nhiều địa phương chưa đồng bộ, nhiều trụ sở làm việc xuống cấp, thiếu trang thiết bị, phương tiện công vụ và hệ thống công nghệ thông tin còn hạn chế, kết nối chưa ổn định, ảnh hưởng đến hiệu quả vận hành.
Một số văn bản hướng dẫn thực hiện ban hành chưa kịp thời, chưa đầy đủ, việc phân cấp, phân quyền còn hình thức, làm giảm tính chủ động của chính quyền cơ sở; nguồn lực tài chính chưa bảo đảm, tiến độ cấp bổ sung ngân sách và xử lý tài sản dôi dư, sổ sách còn chậm. Thời gian triển khai gấp rút, trong khi điều kiện khách quan tại nhiều địa phương, nhất là miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, cũng là nguyên nhân cản trở việc thực hiện đầy đủ, kịp thời các nhiệm vụ theo quy định.
Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về pháp luật liên quan đến hoạt động của chính quyền địa phương 2 cấp
Để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ bảo đảm tổ chức bộ máy của đơn vị hành chính 02 cấp hoạt động ổn định, thông suốt, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn; đồng thời, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, các bộ, ngành, địa phương cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm.
Về thể chế, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tiếp tục rà soát tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các quy định về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền; khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện hệ thống văn bản quy định, hướng dẫn triển khai mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, tạo cơ sở chính trị, pháp lý đầy đủ, bảo đảm thuận lợi để các địa phương triển khai thực hiện.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tham mưu, đề xuất tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn về pháp luật đã được rà soát theo kết luận của Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật; khẩn trương chỉ đạo hướng dẫn xử lý, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc liên quan trực tiếp đến hoạt động của chính quyền địa phương 2 cấp, nhất là đối với các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu tăng trưởng của địa phương trong năm 2025.
Ưu tiên giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp, không để tồn đọng, chậm trễ
Về giải quyết thủ tục hành chính tại cấp cơ sở, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung ưu tiên giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp, không để tồn đọng, chậm trễ. Đây phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu: Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn trong thực hiện thủ tục hành chính chính là nguồn lực, động lực cho sự phát triển. Tiếp tục duy trì tập huấn, hướng dẫn cho cơ sở, nhất là đối với cấp xã; kiểm tra, giám sát việc thực hiện giải quyết đúng quy định, không để xảy ra ách tắc.
Các địa phương thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại Trung tâm Phục vụ hành chính công các cấp theo đúng quy định tại Nghị định số 118/2025/NĐ-CP; riêng đối với việc thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công một cấp thực hiện theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 15 và khoản 1 Điều 16 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương; việc thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp xã thực hiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 21 và khoản 1 Điều 22 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Văn phòng Chính phủ xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 63/2010/NĐ-CP về kiểm soát thủ tục hành chính theo trình tự thủ tục rút gọn, bảo đảm triển khai có hiệu quả Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025, kiểm soát chặt chẽ việc ban hành và duy trì thủ tục hành chính thực sự cần thiết, hợp lý, hợp pháp, có chi phí tuân thủ thấp nhất, trình Chính phủ trong năm 2025; hướng dẫn chuẩn hóa, thống nhất về phạm vi công bố thủ tục hành chính nội bộ theo thẩm quyền giải quyết của tỉnh. Đôn đốc các bộ, cơ quan ngang bộ kịp thời công bố và cập nhật vào cơ sở dữ liệu quốc gia đối với các thủ tục hành chính mới ban hành, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ làm cơ sở cho các địa phương công bố, công khai thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết trên địa bàn.
Bộ Tư pháp khẩn trương ban hành quy định thống nhất về mức độ dịch vụ công trực tuyến lĩnh vực chứng thực; nâng cấp hệ thống phần mềm hộ tịch, bảo đảm liên thông với hệ thống thủ tục hành chính các tỉnh, thành phố; khắc phục lỗi không đồng bộ thông tin giữa Hệ thống thông tin quản lý hộ tịch và Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính để kịp thời giải quyết nhu cầu thực hiện thủ tục hành chính của người dân liên quan đến hộ tịch.
Khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về căn cứ thu hồi, giao, cho thuê đất
Về công tác quy hoạch, đất đai, Chính phủ giao Bộ Xây dựng đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết số 66.1/2025/NQ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2025 của Chính phủ quy định xử lý khó khăn, vướng mắc về việc lập mới, điều chỉnh và phê duyệt quy hoạch phân khu đối với khu vực hình thành đô thị khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp. Định hướng không gian phát triển mới, điều chỉnh quy hoạch phù hợp để khai thác tối đa tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã.
Bộ Tài chính nghiên cứu, xem xét quy trình, thủ tục rút gọn về phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tỉnh, thành phố mới để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về căn cứ thu hồi, giao, cho thuê đất theo Luật Đất đai; hướng dẫn việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp xã theo quy định tại Nghị định số 151 và thông tư số 23/2025/TT-BNNMT; tham mưu thực hiện thống nhất khung giá đất sau sáp nhập, làm cơ cở triển khai công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Hướng dẫn việc bố trí, sắp xếp người hoạt động không chuyên trách
Về tổ chức bộ máy và biên chế, công tác cán bộ, Chính phủ giao Bộ Nội vụ khẩn trương tham mưu, trình Chính phủ ban hành các văn bản sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức bộ máy, biên chế, tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo các quy định mới của Bộ Chính trị để địa phương có cơ sở thống nhất trong thực hiện, đồng thời khẩn trương trình Chính phủ ban hành quy định về tiêu chí và trình tự, thủ tục sắp xếp thôn, tổ dân phố; phối hợp với các bộ, ngành liên quan, các địa phương hướng dẫn việc bố trí, sắp xếp người hoạt động không chuyên trách để các địa phương tổ chức thực hiện; hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị sự nghiệp công lập để ủy ban nhân dân cấp xã rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bảo đảm đồng bộ, thống nhất. Khẩn trương tham mưu Chính phủ ban hành trong tháng 9 năm 2025 quy định về tiêu chuẩn đơn vị hành chính, phân loại đơn vị hành chính và phân loại đô thị.
Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương tham mưu, trình Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn về tiêu chuẩn chức danh, xác định vị trí việc làm, từ đó làm cơ sở xác định số lượng biên chế phù hợp, bảo đảm bộ máy vận hành trơn tru, hiệu quả. Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương kiện toàn vị trí cán bộ còn thiếu, bảo đảm số lượng; trong quá trình kiện toàn, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cán bộ, bảo đảm bộ máy vận hành thông suốt, hiệu quả.
Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, các Bộ ngành liên quan, các địa phương rà soát tổng thể nhu cầu sử dụng viên chức ngành giáo dục, y tế ở các địa phương; hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện tuyển dụng bảo đảm đúng quy định về số lượng biên chế giao ngay từ năm học 2025 - 2026; chủ động xây dựng Đề án tiền lương và phụ cấp, báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định để áp dụng chung, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế rà soát các Thông tư hướng dẫn định mức biên chế của ngành, lĩnh vực sự nghiệp giáo dục, y tế, bảo đảm đúng chủ trương, kết luận của Bộ Chính trị và báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương trước khi ban hành theo thẩm quyền.
Sắp xếp, luân chuyển cán bộ phù hợp với thực tiễn của địa phương
Về việc cử cán bộ của các bộ, ngành xuống địa phương, Chính phủ giao Bộ Nội vụ chủ trì, hướng dẫn việc cử cán bộ xuống địa phương căn cứ vào nhu cầu, đề xuất cụ thể của địa phương (vấn đề mong muốn hỗ trợ tháo gỡ, số lượng cán bộ, thời hạn...), từ đó bố trí cán bộ bảo đảm hợp lý trên cơ sở sự điều phối của địa phương, tránh lãng phí, tránh bỏ sót và chồng chéo; các địa phương cần chủ động trong việc bố trí, sắp xếp, luân chuyển cán bộ để phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương, không để xảy ra tình trạng nơi thừa, nơi thiếu, không đáp ứng được yêu cầu công việc.
Bộ Nội vụ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng vị trí việc làm, từ đó làm cơ sở tuyển dụng, luân chuyển và bổ nhiệm cán bộ, bảo đảm minh bạch, hiệu quả; xây dựng các chương trình bồi dưỡng, đào tạo chuyên sâu, có tính ứng dụng cao, đặc biệt trong các lĩnh vực tài chính, pháp lý, công nghệ thông tin và quy hoạch; nghiên cứu, xây dựng các nội dung hướng dẫn trực tuyến, chi tiết cụ thể từng bước, phổ biến trên các nền tảng mạng xã hội, các hệ thống đào tạo trực tuyến để cán bộ cấp xã, phường, nghiên cứu, học tập nhất là các quy trình, quy chuẩn, tiêu chuẩn... để sử dụng trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
Xây dựng cơ chế tài chính đặc thù, riêng biệt, phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính 02 cấp
Bộ Tài chính chủ trì, tiếp tục bố trí nguồn lực tài chính từ ngân sách trung ương hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, nhà ở công vụ, tại các xã, phường, đặc khu mới thành lập, đặc biệt ở các địa phương miền núi, khó khăn.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ, ngành, địa phương, nghiên cứu xây dựng cơ chế tài chính đặc thù, riêng biệt, phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính 02 cấp (ví dụ: khu vực đô thị, miền núi, hải đảo...) để bảo đảm nguồn lực được phân bổ hiệu quả.
Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 1891/QĐ-TTg ngày 3/9/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Công an năm 2025.
Công an hướng dẫn chuyển quyền sở hữu điện tử phục vụ sang tên xe trên Cổng Dịch vụ công.
Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trong 3 lĩnh vực: Định danh và xác thực điện tử; quản lý xuất nhập cảnh; bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
Giảm thời gian xác nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ xác thực điện tử
Đối với thủ tục cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ xác thực điện tử, giảm thời gian giải quyết từ 46 ngày xuống còn 31 ngày. Thủ tục thay đổi Giấy xác nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ xác thực điện tử giảm thời gian giải quyết từ 40 ngày xuống còn 27 ngày. Thủ tục Cấp lại Giấy xác nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ xác thực điện tử giảm thời gian giải quyết từ 03 ngày xuống còn 02 ngày.
Rút ngắn thời gian cấp, cấp lại và đổi Giấy phép lái xe
Thủ tướng Chính phủ cũng phê duyệt giảm thời gian giải quyết thủ tục cấp Giấy phép lái xe từ 07 ngày làm việc xuống còn 4,5 ngày làm việc (giảm 2,5 ngày làm việc); giảm thời gian giải quyết thủ tục đổi Giấy phép lái xe từ 05 ngày làm việc xuống còn 3,5 ngày làm việc (giảm 1,5 ngày làm việc); giảm thời gian giải quyết thủ tục Cấp lại giấy phép lái xe từ 05 ngày làm việc xuống còn 3,5 ngày làm việc (giảm 1,5 ngày làm việc).
Bỏ thủ tục Cấp lại giấy phép sát hạch cho trung tâm sát hạch lái xe
Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ cũng quyết định bỏ thủ tục Cấp lại giấy phép sát hạch cho trung tâm sát hạch lái xe loại 1, loại 2, loại 3 đối với trường hợp Giấy phép bị hỏng, mất, thay đổi tên của Trung tâm sát hạch vì khi Giấy phép sát hạch bản giấy bị hỏng, mất thì sử dụng bản điện tử; trường hợp thay đổi tên Trung tâm sát hạch thì điều chỉnh trên môi trường điện tử.
Giảm 30% phí, lệ phí đăng ký xe
Theo phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính thì các thủ tục: Đăng ký xe lần đầu trực tuyến toàn trình đối với xe sản xuất lắp ráp trong nước và nhập khẩu; đổi và cấp lại chứng nhận đăng ký xe, biển số xe bằng dịch vụ công trực tuyến một phần hoặc trực tiếp;... được bổ sung quy định kết quả đăng ký xe được tích hợp trên VNelD của cá nhân và giảm phí, lệ phí đăng ký xe 30% theo mức phí, lệ phí đang được áp dụng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ cũng phê duyệt giảm phí, lệ phí đăng ký xe 30% theo mức phí, lệ phí đang được áp dụng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi thực hiện thủ tục: Đăng ký xe tạm thời thực hiện bằng dịch vụ công trực tuyến toàn trình; đăng ký xe tạm thời thực hiện bằng dịch vụ công trực tuyến một phần hoặc trực tiếp.
Chuyển quyền sở hữu xe trên Cổng dịch vụ công
Về thủ tục cấp chứng nhận đăng ký xe, biển số xe trong trường hợp thay đổi chủ xe (đăng ký sang tên xe), nội dung đơn giản hóa gồm: Thí điểm triển khai giao dịch chuyển quyền sở hữu điện tử phục vụ sang tên xe trên cổng dịch vụ công; thực hiện triển khai đối với các địa phương có dữ liệu hôn nhân đầy đủ.
Lý do thay thế Hợp đồng mua bán xe công chứng, chứng thực bằng dữ liệu điện tử chuyển quyền sở hữu xe trên Cổng dịch vụ công nhằm tiết kiệm chi phí, thời gian thực hiện cho người dân.
Bổ sung quy định kết quả đăng ký xe được tích hợp trên VNelD của cá nhân và giảm phí, lệ phí đăng ký xe 30% theo mức phí, lệ phí đang được áp dụng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 1893/QĐ-TTg ngày 3/9/2025 phê duyệt Cơ chế điều phối liên ngành về phát triển bền vững kinh tế biển.
Phê duyệt Cơ chế điều phối liên ngành về phát triển bền vững kinh tế biển
Theo Quyết định, cơ chế này quy định về nguyên tắc, nội dung, phương thức và trách nhiệm trong việc phối hợp giữa Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Ủy ban) với các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển (Ủy ban nhân dân) trong phát triển bền vững kinh tế biển.
Đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời
Quyết định nêu rõ một trong nguyên tắc phối hợp là bảo đảm phối hợp chặt chẽ hiệu quả; phân công cụ thể trách nhiệm phối hợp của các bộ, ngành, địa phương và Ủy ban.
Hoạt động phối hợp phải dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển; tuân thủ các quy định tại Cơ chế này và theo quy định của pháp luật; bảo đảm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công việc, giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong phát triển bền vững kinh tế biển.
Chủ động, thường xuyên trao đổi thông tin; đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời. Bảo đảm sự đoàn kết, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan liên quan.
Khi phát sinh các vấn đề cần xử lý thuộc thẩm quyền của cơ quan nào thì cơ quan đó chủ trì và các đơn vị khác phối hợp; khi phát sinh vấn đề thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan quản lý thì báo cáo Ủy ban để chủ trì xử lý.
Nội dung phối hợp
Theo Quyết định có 6 nội dung phối hợp:
1- Phối hợp cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu về những quy định của pháp luật, chủ trương, chính sách mới và tình hình thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.
2- Phối hợp trong xử lý các vấn đề mang tính liên ngành trong thực hiện công tác quản lý nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
3- Phối hợp trong xây dựng và triển khai cơ sở dữ liệu biển, các cơ chế tài chính, đảm bảo an ninh, an toàn trên biển và hợp tác quốc tế nhằm hỗ trợ phát triển bền vững kinh tế biển.
4- Phối hợp trong công tác đôn đốc, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án liên quan đến Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.
5- Phối hợp trong tổ chức các hội nghị, hội thảo, các diễn đàn liên quan tới Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.
6- Phối hợp trong công tác sơ kết, tổng kết tình hình thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.
Cung cấp, trao đổi thông tin về thực hiện các chiến lược, quy hoạch, liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam
Trong cung cấp, trao đổi thông tin về thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, Quyết định nêu rõ trách nhiệm chung của các bộ, ngành và địa phương liên quan về cung cấp, trao đổi thông tin về:
Tình hình triển khai Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 26/NQ-CP) theo 06 nhóm nhiệm vụ: (1) Quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ; (2) Phát triển kinh tế biển, ven biển; (3) Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng văn hóa biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển; (4) Khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực; (5) Môi trường, ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng; (6) Đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế.
Tình hình thực hiện Nghị quyết số 139/2024/QH15 ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Quốc hội về Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 139/2024/QH15), gồm: (1) Thông tin về lập, điều chỉnh các quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành, quy hoạch khác có liên quan do bộ chủ trì bảo đảm thống nhất, đồng bộ với Quy hoạch không gian biển quốc gia; (2) Thông tin về tình hình xây dựng và ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách, giải pháp phát triển ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý để đạt được các mục tiêu đã đề ra trong Quy hoạch và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch không gian biển quốc gia; (3) Thông tin về đánh giá thực hiện Quy hoạch không gian biển quốc gia hằng năm, 05 năm theo quy định của pháp luật về quy hoạch.
Trách nhiệm cụ thể của các bộ, ngành và địa phương liên quan về cung cấp trao đổi thông tin được thực hiện theo Phụ lục kèm theo Cơ chế này.
Phối hợp trong xử lý các vấn đề mang tính liên ngành trong thực hiện công tác quản lý nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được giao
Các bộ, ngành, địa phương có biển cần chủ động xử lý các vấn đề phát sinh trong sử dụng không gian biển theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao. Đối với các vấn đề mang tính liên ngành, liên bộ, liên địa phương, các bộ, ngành và địa phương có biển báo cáo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cơ quan thường trực Ủy ban để tổng hợp xử lý. Việc xử lý thông qua phiên họp liên ngành để xem xét trên cơ sở tiêu chí như sau:
a) Tiêu chí ưu tiên theo quy hoạch và chiến lược quốc gia: Các hoạt động sử dụng không gian biển phải phù hợp với Nghị quyết số 139/2024/QH15, Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam (Nghị quyết số 36-NQ/TW), Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Nghị quyết số 48/NQ-CP) và các chiến lược, quy hoạch ngành liên quan.
b) Tiêu chí đảm bảo quốc phòng và an ninh: Các hoạt động sử dụng không gian biển không được gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, độc lập, chủ quyền, và quyền tài phán của Việt Nam.
c) Tiêu chí đánh giá tác động kinh tế - xã hội: Đánh giá mức độ đóng góp của các hoạt động vào: (1) Tăng trưởng kinh tế biển và vùng ven biển; (2) Tạo việc làm và cải thiện đời sống cộng đồng địa phương; (3) Phát triển văn hóa biển và xã hội gắn bó với biển; (4) Ưu tiên các hoạt động có lợi ích kinh tế - xã hội lớn hơn, ít gây tác động tiêu cực đến các bên liên quan khác; (5) Xem xét các tác động ngắn hạn và dài hạn, đặc biệt là đối với các cộng đồng dễ bị tổn thương như ngư dân và dân tộc thiểu số ven biển.
d) Tiêu chí bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu: (1) Ưu tiên các hoạt động có tác động thấp đến môi trường, bảo vệ hệ sinh thái biển và hỗ trợ phục hồi các khu vực bị suy thoái; (2) Đánh giá khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, đặc biệt đối với các dự án ven biển hoặc khu vực dễ bị tổn thương; (3) Ưu tiên các hoạt động có cam kết rõ ràng về giảm thiểu ô nhiễm và bảo tồn đa dạng sinh học.
đ) Tiêu chí tham vấn cộng đồng và các bên liên quan: Các hoạt động sử dụng không gian biển đã được tham vấn và được sự đồng thuận của cộng đồng địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức liên quan theo quy định của pháp luật.
Đối với các trường hợp vượt thẩm quyền, Bộ Nông nghiệp và Môi trường có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan đề xuất phương án xử lý, báo cáo Chủ tịch Ủy ban để xem xét, chỉ đạo.
Việc xây dựng, thẩm định các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách liên quan tới phát triển kinh tế biển phải có sự tham gia góp ý của các bộ, ngành, địa phương liên quan để đảm bảo tính đồng bộ, tránh chồng chéo, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển gắn với công tác bảo vệ quốc phòng, an ninh.
Các bộ, ngành và địa phương được giao chủ trì các nhiệm vụ xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách liên quan tới phát triển kinh tế biển cần chủ động thông tin tới Cơ quan thường trực Ủy ban và các ủy viên Ủy ban để bố trí nhân lực tham gia xây dựng, góp ý.
Thời hạn trao đổi, cung cấp thông tin
Các bộ, ngành, địa phương có biển có trách nhiệm cung cấp, chia sẻ công khai những thông tin, tài liệu định kỳ 02 lần/năm. Lần 1 trước ngày 31 tháng 5, lần 2 trước ngày 05 tháng 12 hằng năm để phục vụ cuộc họp định kỳ 02 lần/năm của Ủy ban.
Trường hợp có yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin, cơ quan được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không cung cấp thông tin, cơ quan được yêu cầu phải có văn bản thông báo, nêu rõ lý do trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Đối với những yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin khẩn cấp nhằm đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm cơ quan được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp ngay trong ngày, sau khi có sự phê duyệt của người có thẩm quyền. Trường hợp không cung cấp được ngay phải nêu rõ lý do và phải chịu trách nhiệm về lý do được nêu ra.
Khi có yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin, đơn vị đầu mối của cơ quan được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời./.