In bài viết

Chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 1/11

(Chinhphu.vn)- Văn phòng Chính phủ vừa có thông cáo báo chí Chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 1/11.

02/11/2021 07:11

Giải pháp bố trí Đội viên Dự án thí điểm tuyển chọn trí thức trẻ tình nguyện về các xã tham gia phát triển nông thôn, miền núi giai đoạn 2013-2020 sau khi hoàn thành nhiệm vụ

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 136/NQ-CP ngày 1/11/2021 về giải pháp bố trí đối với Đội viên Dự án thí điểm tuyển chọn trí thức trẻ tình nguyện về các xã tham gia phát triển nông thôn, miền núi giai đoạn 2013-2020 sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

Nghị quyết nêu rõ: Việc tuyển chọn và đưa trí thức trẻ tình nguyện về các xã tham gia phát triển nông thôn, miền núi giai đoạn 2013-2020 được phê duyệt tại Quyết định số 1758/QĐ-TTg ngày 30/9/2013 của Thủ tướng Chính phủ là một chủ trương đúng đắn, trên cơ sở đó đã xây dựng được một đội ngũ trí thức trẻ ưu tú, có ý thức phấn đấu (75,2% Đội viên đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam), đã được rèn luyện thử thách trong thực tiễn cơ sở, có những cống hiến và thành tích nhất định trong việc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới cho bà con nhân dân ở 500 xã vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc và miền núi, biên giới, hải đảo.

Theo quy định tại Quyết định số 1758/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, sau khi hoàn thành nhiệm vụ tại xã trong thời gian 5 năm (đủ 60 tháng), Đội viên Đề án được xét chuyển thành cán bộ, công chức cấp xã hoặc công chức từ cấp huyện trở lên theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tính đến tháng 12 năm 2020 (khi kết thúc Đề án), có 67 Đội viên được bố trí, tuyển dụng thành cán bộ, công chức cấp xã, cấp huyện và viên chức; 385 Đội viên được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên có nguyện vọng nhưng chưa được bố trí công tác; có 48 Đội viên không có nhu cầu bố trí công tác sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Trong khi đó, các địa phương nơi Đội viên công tác đều có nhu cầu tiếp tục sử dụng đội ngũ này nhưng gặp khó khăn về biên chế, vị trí việc làm nên chưa kịp thời bố trí đối với Đội viên sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

Để bảo đảm xuyên suốt chủ trương, chính sách thu hút trí thức trẻ về công tác tại địa bàn khó khăn, bảo đảm quyền lợi cho các Đội viên đã có thời gian công tác, cống hiến, Chính phủ yêu cầu Bộ Nội vụ và các bộ liên quan, 34 tỉnh thuộc phạm vi Đề án giải quyết vướng mắc trong việc bố trí, sử dụng Đội viên Đề án 500 trí thức trẻ sau khi hoàn thành nhiệm vụ như sau:

UBND các tỉnh thuộc phạm vi thực hiện Đề án có trách nhiệm xây dựng phương án và thực hiện việc tuyển dụng, bố trí Đội viên Đề án 500 trí thức trẻ sau khi hoàn thành nhiệm vụ vào làm cán bộ, công chức cấp xã hoặc làm công chức, viên chức trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi thẩm quyền quản lý, hoàn thành trước ngày 31/12/2025.

Việc tuyển dụng, bố trí Đội viên sau khi hoàn thành nhiệm vụ vào làm cán bộ, công chức cấp xã hoặc làm công chức, viên chức phải bảo đảm đủ tiêu chuẩn, điều kiện và thực hiện theo quy trình quy định hiện hành. Thời gian Đội viên làm việc tại xã được tính như thời gian làm công chức cấp xã khi xem xét, tiếp nhận vào làm công chức, viên chức theo quy định của Nghị định số 38/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.

Trong thời gian chờ địa phương thực hiện việc tuyển dụng, bố trí công tác, các Đội viên tiếp tục được ký hợp đồng lao động để làm việc tại xã nơi đang công tác và hưởng chế độ, chính sách theo quy định tại khoản 5 Điều 1 Quyết định số 1758/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và khoản 2 Điều 3 Thông tư số 68/2014/TT-BTC ngày 21/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý, sử dụng kinh phí thực hiện Đề án 500 trí thức trẻ.

Chính phủ yêu cầu Bộ Nội vụ có trách nhiệm đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc tuyển dụng, bố trí Đội viên Đề án 500 trí thức trẻ sau khi hoàn thành nhiệm vụ; báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện hằng năm và bảo đảm hoàn thành việc bố trí trước ngày 31/12/2025.

UBND các tỉnh thuộc phạm vi thực hiện Đề án 500 trí thức trẻ có trách nhiệm xây dựng phương án và thực hiện tuyển dụng, bố trí Đội viên Đề án 500 trí thức trẻ sau khi hoàn thành nhiệm vụ; chỉ đạo, hướng dẫn việc ký hợp đồng lao động và thực hiện chế độ, chính sách đối với Đội viên tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tại xã nơi đang công tác đến khi địa phương thực hiện việc tuyển dụng, bố trí làm cán bộ, công chức cấp xã hoặc làm công chức, viên chức.

Bên cạnh đó, bố trí kinh phí từ nguồn cải cách tiền lương của địa phương để chi trả chế độ, chính sách cho Đội viên Đề án tiếp tục công tác tại xã theo hướng dẫn tại Thông tư số 68/2014/TT-BTC; giải quyết chế độ, chính sách theo quy định đối với Đội viên không có nhu cầu bố trí, tiếp tục công tác tại xã theo Quyết định số 1758/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. 


Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường hiệu quả công tác quản lý khu bảo tồn biển Việt Nam

Phó Thủ tướng Lê Văn Thành vừa ký ban hành Chỉ thị số 29/CT-TTg ngày 1/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương thực hiện một số giải pháp cấp bách nhằm tăng cường hiệu quả công tác quản lý khu bảo tồn biển Việt Nam.

Để khẩn trương khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác quản lý khu bảo tồn biển hiện nay, bảo đảm nâng cao hiệu quả công tác quản lý khu bảo tồn biển, góp phần phát triển bền vững kinh tế biển, quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ven biển tập trung chỉ đạo cơ quan chức năng thực hiện nghiêm một số nhiệm vụ trọng tâm.

Các địa phương khẩn trương thành lập khu bảo tồn biển

Cụ thể, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ven biển xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án làm cơ sở khoa học đề xuất thành lập mới, mở rộng hệ thống khu bảo tồn biển và phục hồi, phát triển các hệ sinh thái biển; đôn đốc, hướng dẫn địa phương khẩn trương thành lập, quản lý khu bảo tồn biển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; chỉ đạo lực lượng Kiểm ngư tuần tra, kiểm soát, thực thi pháp luật thủy sản, xử lý các hành vi vi phạm tại các khu bảo tồn biển và trên các vùng biển.

Cùng với đó là xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về hệ thống khu bảo tồn biển; nghiên cứu xây dựng cơ chế tài chính bền vững cho khu bảo tồn biển, ban hành lượng giá giá trị của các hệ sinh thái biển làm cơ sở đề xuất phương án thu chi phí dịch vụ hệ sinh thái biển tại các khu bảo tồn biển; thực hiện nhiệm vụ điều tra, thu thập số liệu về đa dạng sinh học trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt mở rộng hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam theo đúng chủ trương đã được đề ra tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Chỉ thị yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hỗ trợ, hướng dẫn các địa phương trong công tác thành lập, quản lý khu bảo tồn biển; tổ chức tập huấn, nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác bảo tồn tại địa phương; tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức người dân và xã hội, đặc biệt người dân sống trong và xung quanh khu bảo tồn biển bằng các phương thức đa dạng và phù hợp với văn hóa địa phương; có chế độ đãi ngộ, khen thưởng kịp thời đối với các tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc, sáng kiến góp phần giữ gìn, phát triển các khu bảo tồn biển; tăng cường kiểm tra, thanh tra công tác quản lý khu bảo tồn biển trong phạm vi cả nước.

Xử lý nghiêm các vi phạm về bảo vệ môi trường

Chỉ thị yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học biển; kiểm soát nghiêm ngặt hoạt động nhận chìm ở biển, hoạt động lấn biển, hoạt động khai thác khoáng sản trên biển để hạn chế tối đa tác động, ảnh hưởng xấu đến môi trường biển, hệ sinh thái biển và nguồn lợi thủy sản.

Bộ Công an tăng cường điều tra, xử lý nghiêm các vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học biển; phối hợp rà soát, thẩm định các dự án tại các khu vực biển, đảo, tránh tác động xấu đến môi trường, hệ sinh thái, khu bảo tồn biển và an ninh quốc phòng.

Bộ Quốc phòng tăng cường tuần tra, kiểm soát phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn biển trên các vùng biển, hải đảo theo quy định của pháp luật; nâng cao năng lực và tổ chức lực lượng sẵn sàng ứng phó các sự cố môi trường trên các vùng biển, hải đảo; phối hợp với chính quyền địa phương và các lực lượng chức năng của các bộ, ngành khác tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, hải đảo.

Bộ Thông tin và Truyền thông tăng cường chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và hệ thống thông tin cơ sở về vai trò, tầm quan trọng của bảo tồn biển; các gương người tốt, việc tốt trong công tác quản lý, bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học biển, tạo sự chuyển biến trong nhận thức của nhân dân; phản ánh trung thực, tạo nhận thức và hành động thống nhất trong đấu tranh, phòng ngừa đối với các hành vi vi phạm pháp luật.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến đến khách du lịch, các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học biển, di sản văn hóa; tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra, phối hợp xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học biển, di sản văn hóa.

Chỉ thị cũng yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố ven biển chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm các biện pháp bảo tồn biển, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của địa phương.

Kiên quyết thu hồi diện tích biển thuộc các dự án vi phạm

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố ven biển tổ chức rà soát, đánh giá tác động của các dự án có liên quan đến khu bảo tồn biển, đặc biệt là các dự án phát triển du lịch, khu nghỉ dưỡng, khu đô thị lấn biển, khu đô thị ven biển, dự án nuôi trồng hải sản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc hoạt động không đúng theo quy hoạch từ trước đến nay; kiên quyết thu hồi diện tích biển, đảo, ven đảo thuộc các dự án vi phạm pháp luật, không thực hiện đúng nội dung được phê duyệt; không cấp phép các dự án đầu tư phát triển trên phần diện tích đã quy hoạch thành lập khu bảo tồn biển, khu vực có phân bổ của các hệ sinh thái rạn san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn; thẩm định chặt chẽ, đánh giá kỹ năng lực, điều kiện và tính khả thi đối với các dự án đầu tư, giao khu vực biển, cấp phép nhận chìm ở biển, xây dựng khu nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái tại các khu vực ven biển, đảo..., phù hợp với quy hoạch ngành, không gây tổn hại đến sinh thái, môi trường tại khu vực biển, đảo, khu bảo tồn biển, đảm bảo quy định pháp luật, lợi ích kinh tế và an ninh quốc phòng.

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố ven biển chỉ đạo các cơ quan liên quan phối hợp với ban quản lý khu bảo tồn biển trong công tác tuần tra, kiểm soát, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến quản lý khu bảo tồn biển; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn tình trạng xâm phạm khu bảo tồn biển, gây ô nhiễm môi trường và hủy hoại hệ sinh thái biển, khai thác nguồn lợi hải sản trái phép tại các khu bảo tồn biển; tăng cường công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương để giáo dục, phòng ngừa các vi phạm liên quan đến khu bảo tồn biển.

Đồng thời, chủ động bố trí nguồn lực của địa phương để hỗ trợ cộng đồng ngư dân sống trong và xung quanh khu bảo tồn biển chuyển đổi nghề từ đánh bắt, khai thác nguồn lợi hải sản gần bờ sang các nghề khác, nhằm giảm áp lực lên khu bảo tồn biển, đảm bảo hiệu quả công tác quản lý khu bảo tồn biển…


Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi về kinh doanh xăng dầu

Ngày 1/11/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 95/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 3/9/2014 về kinh doanh xăng dầu, trong đó bổ sung Điều 38a về công thức giá cơ sở xăng dầu.

Cụ thể, giá cơ sở xăng dầu được xác định bằng (=) giá xăng dầu từ nguồn nhập khẩu nhân với (x) tỉ trọng (%) sản lượng xăng dầu từ nguồn nhập khẩu cộng ( ) giá xăng dầu từ nguồn sản xuất trong nước nhân với (x) tỉ trọng (%) sản lượng xăng dầu từ nguồn sản xuất trong nước.

Giá cơ sở xăng sinh học được xác định bằng (=) tỉ lệ phần trăm thể tích xăng không chì (%) nhân (x) {(giá xăng thế giới cộng ( ) chi phí đưa xăng từ nước ngoài về cảng Việt Nam cộng ( ) chi phí về thuế nhập khẩu xăng) nhân (x) tỉ trọng sản lượng xăng nhập khẩu cộng ( ) (giá xăng thế giới cộng ( ) premium cộng ( ) chi phí đưa xăng từ nhà máy lọc dầu trong nước đến cảng (nếu có)) nhân (x) tỉ trọng sản lượng xăng từ nguồn sản xuất trong nước)} cộng ( ) tỉ lệ phần trăm thể tích Etanol nhiên liệu (%) nhân (x) giá Etanol nhiên liệu cộng ( ) chi phí kinh doanh định mức cộng ( ) mức trích lập Quỹ bình ổn giá cộng ( ) lợi nhuận định mức cộng ( ) các khoản chi phí về thuế, phí và các khoản trích nộp khác theo quy định của pháp luật hiện hành.

Sửa điều kiện đối với thương nhân kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu

Nghị định cũng sửa đổi điều kiện đối với thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu. Một trong các điều kiện được sửa là thương nhân phải có hệ thống phân phối xăng dầu: Tối thiểu 10 cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc sở hữu hoặc thuê với thời hạn thuê từ 5 năm trở lên, trong đó có ít nhất 5 cửa hàng thuộc sở hữu của doanh nghiệp; tối thiểu 40 tổng đại lý kinh doanh xăng dầu hoặc đại lý bán lẻ xăng dầu hoặc thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu thuộc hệ thống phân phối của thương nhân.

Đối với thương nhân đầu mối kinh doanh nhiên liệu hàng không, Nghị định quy định không bắt buộc phải có hệ thống phân phối quy định trên nhưng phải đáp ứng thêm điều kiện sau:

- Có phương tiện vận tải, xe tra nạp nhiên liệu hàng không phù hợp với quy định, tiêu chuẩn mặt hàng nhiên liệu hàng không thuộc sở hữu hoặc thuê với thời hạn thuê từ 5 năm trở lên.

- Có kho tiếp nhận tại sân bay với các trang thiết bị, cơ sở vật chất đáp ứng các tiêu chuẩn của mặt hàng nhiên liệu hàng không thuộc sở hữu hoặc thuê với thời hạn thuê từ 5 năm trở lên.

- Có phòng thử nghiệm đủ năng lực thuộc sở hữu hoặc thuê để kiểm tra chất lượng mặt hàng nhiên liệu hàng không theo tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế theo quy định hiện hành.

Cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc sở hữu hoặc thuê

Đối với đại lý bán lẻ xăng dầu, Nghị định sửa điều kiện về cửa hàng bán lẻ như sau: Có cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc sở hữu hoặc thuê với thời hạn thuê từ 5 năm trở lên được cấp Giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu theo quy định tại Điều 25 Nghị định này.

Nghị định cũng quy định điều kiện đối với cửa hàng bán lẻ xăng dầu là: Thuộc sở hữu hoặc thuê với thời hạn thuê từ 5 năm trở lên của thương nhân là đại lý bán lẻ xăng dầu hoặc tổng đại lý kinh doanh xăng dầu hoặc thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu hoặc thương nhân phân phối xăng dầu hoặc thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu hoặc thương nhân đầu mối sản xuất xăng dầu có hệ thống phân phối theo quy định tại Nghị định này (thương nhân đề nghị cấp phải đứng tên tại Giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu). Trường hợp đi thuê cửa hàng bán lẻ xăng dầu, thương nhân đi thuê phải đứng tên tại Giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu.

Nghị định 95/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 2/1/2022.


Kết luận của Phó Thủ tướng Lê Minh Khái – Trưởng Ban Chỉ đạo điều hành giá tại cuộc họp Ban Chỉ đạo điều hành giá quý III/2021

Tại Thông báo số 293/TB-VPCP ngày 1/11/2021 Kết của Phó Thủ tướng Lê Minh Khái – Trưởng Ban Chỉ đạo điều hành giá quý III năm 2021, Phó Thủ tướng đánh giá cao những kết quả đạt được trong công tác quản lý điều hành giá và các giải pháp về tài khóa, tiền tệ được triển khai đồng bộ phối hợp với các chính sách vĩ mô khác từ đầu năm đến nay đã góp phần tích cực ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội gắn với yêu cầu phòng chống dịch COVID-19 tạo tiền đề phục hồi nền kinh tế. Các bộ, ngành, địa phương đã chủ động, kịp thời đề xuất các giải pháp hỗ trợ về giá một số mặt hàng quan trọng thiết yếu (điện, xăng dầu, nước sạch, viễn thông…) và điều hành, giải quyết các vướng mắc, ổn định dư luận xã hội khi thị trường có biến động.

CPI bình quân 10 tháng đầu năm 2021 ở mức 1,81% là điều kiện thuận lợi và có dư địa để kiểm soát lạm phát cả năm 2021 dưới mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, hiện nay áp lực lên mặt bằng giá của một số mặt hàng tiêu dùng không nằm trong danh mục Nhà nước định giá, bình ổn giá là rất lớn do tác động từ cung cầu và khó khăn trong lưu thông hàng hóa. Diễn biến kinh tế thế giới vẫn còn những bất ổn, lạm phát chung có xu hướng tăng cao tại nhiều quốc gia, xu hướng tích trữ các mặt hàng nguyên, nhiên liệu, vật tư chiến lược sẽ có tác động ảnh hưởng đến Việt Nam, đòi hỏi các bộ, ngành, địa phương tiếp tục tập trung nắm bắt, theo sát diễn biến thị trường, không được chủ quan, lơ là và có các giải pháp điều hành phù hợp để tạo dư địa cho năm 2022, đồng thời bảo đảm quyền lợi của Nhà nước, người sản xuất và người tiêu dùng. Bên cạnh đó, có chính sách hỗ trợ đối với những vùng kinh tế khó khăn, những đối tượng chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Chính phủ quyết tâm kiểm soát lạm phát dự kiến khoảng 2,0% để góp phần hỗ trợ sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế và ổn định đời sống xã hội, trong trường hợp bất thường dự kiến cũng không vượt quá 2,5%, bảo đảm thực hiện mục tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra.

Đối với định hướng công tác quản lý, điều hành giá trong các tháng còn lại của năm 2021 và dự kiến cho năm 2022, đề nghị các bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh quyết liệt triển khai các biện pháp.

Giữ bình ổn mặt bằng giá

Cụ thể, về điều hành kinh tế vĩ mô và công tác quản lý, điều hành giá, các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục thực hiện một cách thận trọng, linh hoạt và chủ động, bám sát diễn biến thị trường, thường xuyên có đánh giá, dự báo cụ thể để điều chỉnh cho phù hợp, tập trung vào việc kiểm soát lạm phát theo mục tiêu và hỗ trợ thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ: Vừa giữ bình ổn mặt bằng giá để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hóa phục vụ đời sống của người dân, bảo đảm các điều kiện cho công tác phòng chống dịch bệnh vừa hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Diễn biến giá năng lượng toàn cầu ở mức cao khó lường là áp lực rất lớn cho công tác điều hành giá xăng dầu trong nước những tháng cuối năm và sẽ tạo áp lực rõ ràng cho năm 2022; giá một số mặt hàng nguyên liệu cho sản xuất như sắt thép, phân bón, thức ăn chăn nuôi… tiếp tục ở mức cao và đang có xu hướng tăng do nhu cầu thế giới vẫn ở mức cao nhưng nguồn cung chưa thể đáp ứng. Một số mặt hàng tiêu dùng lớn như gạo, thịt lợn, rau củ quả… cần phải cân đối được cung cầu gắn với khâu sản xuất, lưu thông và tín hiệu thị trường về tiêu dùng để giữ bình ổn giá trong dịp lễ, Tết cuối năm 2021, đồng thời tạo đà thuận lợi những tháng đầu năm 2022.

Tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh

Phó Thủ tướng đề nghị các bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả thị trường các mặt hàng quan trọng, thiết yếu để có biện pháp điều hành phù hợp, mang tính khả thi; chủ động tháo gỡ khó khăn và có phương án điều tiết nguồn hàng để tăng lượng cung ứng cho các địa phương có dịch bệnh cần cách ly hoặc giãn cách xã hội, bảo đảm cung cấp đủ hàng hóa thiết yếu cho người dân; chủ động tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, trong lưu thông để chuẩn bị các nguồn hàng dự trữ, bình ổn giá cả thị trường nhất là dịp cuối năm 2021.

Phó Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tài khóa chủ động phối hợp với chính sách tiền tệ linh hoạt để tạo sự hài hòa, hiệu quả, hợp lý với các chính sách kinh tế vĩ mô chung. Qua đó hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, kiểm soát lạm phát cơ bản và tạo cơ sở cho việc kiểm soát lạm phát mục tiêu, mặt khác tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận tín dụng để phát triển kinh tế.

Các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Bộ Ngoại giao theo dõi sát diễn biến kinh tế thế giới, tình hình lạm phát chung và của các quốc gia, phản ứng chính sách về tài khóa, tiền tệ của các nền kinh tế lớn, nhất là các nền kinh tế có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn với nước ta để đề ra các biện pháp có tính tổng thể, dài hạn trong việc quản lý, điều hành giá, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm thực hiện mục tiêu kép, vừa phòng chống dịch, vừa tiếp tục phát triển kinh tế, an sinh xã hội.

Bộ Tài chính phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành tiếp tục nắm bắt thông tin, đẩy mạnh thực hiện công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá cả thị trường trên thế giới tác động vào Việt Nam, mặt hàng Nhà nước quản lý... để cập nhật xây dựng các kịch bản điều hành giá năm 2022, bám sát mục tiêu của Quốc hội đã giao báo cáo Ban Chỉ đạo điều hành giá cho ý kiến vào phiên họp Tổng kết năm 2021 định hướng điều hành giá năm 2022.

Tiếp tục giữ ổn định giá đối với các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá

Về quản lý, điều hành giá một số mặt hàng quan trọng thiết yếu, Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai một số giải pháp trọng tâm 2 tháng còn lại năm 2021.

Cụ thể, đối với các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá tiếp tục giữ ổn định giá để bảo đảm công tác kiểm soát lạm phát chung cũng như góp phần hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân. Tuy nhiên, cần chủ động các phương án để có thể điều chỉnh giá một số hàng hóa, dịch vụ khi điều kiện cho phép (xây dựng các quy định, định mức kinh tế - kỹ thuật, các phương án thực hiện...). Các bộ quản lý ngành, lĩnh vực phối hợp với Bộ Tài chính để thực hiện lộ trình điều chỉnh giá các dịch vụ công theo đúng Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021.

Mặt hàng xăng dầu, Bộ Công Thương tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính điều hành giá xăng dầu linh hoạt, giá xăng dầu trong nước phản ánh, bám sát diễn biến giá thành phẩm xăng dầu thế giới; đồng thời tính toán mức trích lập và chi sử dụng quỹ BOG phù hợp để tạo dư địa cho công tác điều hành giá trong dịp Tết Nguyên đán và tạo đà kiểm soát giá năm 2022; đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền và công khai minh bạch trong điều hành giá.

Mặt hàng điện, Bộ Công Thương tiến hành kiểm tra giá mặt hàng sản xuất điện để thực hiện công khai minh bạch về giá điện, bên cạnh đó tiếp tục đánh giá kỹ các chi phí đầu vào, kế hoạch cung cấp điện, chi phí dự kiến và các khoản chi phí chưa được tính vào giá điện để xây dựng phương án điều chỉnh giá điện theo Quyết định số 24/2017/QĐ-TTG ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế điều chỉnh mức giá bản lẻ điện bình quân, nhất là dự kiến cho năm 2022; chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam tổ chức triển khai hiệu quả các Nghị quyết của Chính phủ về giảm giá điện, tiền sử dụng điện, nắm bắt và xử lý kịp thời những vướng mắc trong khâu thực hiện.

Tránh tình trạng giá có biến động đột biến

Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Công Thương và các địa phương tiếp tục theo dõi sát, chặt chẽ diễn biến tình hình thị trường, cung, cầu và giá mặt hàng thịt lợn, đặc biệt là trong các thời điểm cuối năm, cận Tết Nguyên đán để tránh tình trạng giá có biến động đột biến khi nguồn cung gián đoạn từ việc tái đàn; nghiên cứu có giải pháp quản lý theo chuỗi từ khâu giết mổ, trong khâu lưu thông, tiêu thụ sản phẩm cho các hộ chăn nuôi, tính toán nguồn cung lâu dài, không để đứt gãy chuỗi cung ứng, xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm pháp luật về giá.

Đối với các mặt hàng phân bón, thức ăn chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan trong hoạt động kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi nhập khẩu. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có các giải pháp để dần thay thế nhập khẩu bằng nguyên liệu sản xuất trong nước; chỉ đạo các doanh nghiệp chủ động đàm phán với các nước mà Việt Nam nhập khẩu số lượng lớn nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, phân bón để có chính sách ưu đãi về giá, ưu tiên đáp ứng đủ số lượng và bảo đảm chất lượng; theo dõi, nắm bắt tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa để không ảnh hưởng đến nguồn cung trong nước và kim ngạch xuất nhập khẩu.

Giám sát việc thực hiện kê khai giá, niêm yết giá

Về dịch vụ vận tải, Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các Sở Giao thông vận tải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc kê khai, niêm yết giá và việc bán vé đúng giá niêm yết đối với các đơn vị kinh doanh vận tải, đặc biệt là trong thời điểm Tết dương lịch, Tết Nguyên đán.

Đối với giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, Bộ Y tế tiếp tục triển khai việc rà soát, sắp xếp lại danh mục dịch vụ kỹ thuật để chuẩn bị cho phương án điều chỉnh giá theo quy định tại Nghị định 60/2021/NĐ-CP.

Đối với giá vật tư y tế, tiếp tục tăng cường cập nhật, công khai kết quả trúng thầu vật tư, trang thiết bị y tế trên Cổng thông tin điện tử Bộ Y tế để bảo đảm công khai, minh bạch đến người dân và xã hội, nhất là thông tin về giá các vật tư, sinh phẩm và vật dụng y tế khác phục vụ chống dịch COVID-19. Sớm ban hành Thông tư quy định giá dịch vụ xét nghiệm theo thẩm quyền và một số nội dung các bộ, ngành đã góp ý và định hướng chỉ đạo của Phó Thủ tướng Lê Minh Khái tại văn bản số 280/TB-VPCP ngày 26/10/2021.

Về vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương chủ động nghiên cứu một số giải pháp nhằm giám sát hoạt động khai thác, sản xuất, đẩy mạnh kiểm tra xử lý các trường hợp lợi dùng đầu cơ tăng giá bất hợp lý. Trường hợp cần thiết nghiên cứu báo cáo Chính phủ sửa đổi bổ sung hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để tạo thuận lợi cho hoạt động này, kiểm soát giá để không ảnh hưởng đến các dự án đầu tư xây dựng tại địa phương.

Bộ Thông tin và truyền thông tiếp tục tổ chức triển khai chủ trương của Chính phủ về việc giảm giá cước dịch vụ viễn thông; theo dõi biến động của thị trường để có các điều chỉnh kịp thời trong công tác quản lý giá cước và khuyến mại, bảo đảm giá cước các dịch vụ bưu chính, viễn thông tiếp tục ổn định.

Phó Thủ tướng cũng yêu cầu Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đẩy mạnh thực hiện công tác giám sát việc thực hiện kê khai giá, niêm yết giá, công khai thông tin về giá; kiểm soát chặt chẽ yếu tố hình thành giá đối với các hàng hóa, dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp công (giá nước sạch...). Tăng cường chỉ đạo các cơ quan chức năng chủ động có kế hoạch hoặc lồng ghép vào các kế hoạch, nhiệm vụ chuyên môn để tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý giá, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật. Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng đất, đá, cát, sỏi và các vật liệu xây dựng khác. Hỗ trợ sản xuất và lưu thông tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp của người dân trong địa bàn. Cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, minh bạch về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, lộ trình triển khai các dự án; phát hiện và xử lý triệt để các đối tượng đưa tin sai sự thật, gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường. Chủ động theo dõi sát diễn biến cung cầu và giá cả thị trường trên địa bàn đặc biệt là tại các địa bàn xảy ra thiên tai, bão lũ, sạt lở đất.

Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, biện pháp bình ổn giá, bảo đảm cung cầu hàng hóa thiết yếu, kiểm soát lạm phát; xử lý nghiêm các hành vi phát tán thông tin sai lệch sự thật, gây hoang mang trong dư luận. Các bộ, ngành phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí trong việc cung cấp thông tin chính xác, chính thống về tình hình giá cả các mặt hàng trong phạm vi quản lý để kịp thời truyền tải đến người dân và kiểm soát lạm phát kỳ vọng…


Hỗ trợ 6 địa phương khắc phục thiệt hại về nhà ở do thiên tai

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái vừa ký Quyết định số 1830/QĐ-TTg ngày 1/11/2021 hỗ trợ kinh phí cho 6 địa phương khắc phục thiệt hại về nhà ở theo Nghị quyết số 165/NQ-CP ngày 5/11/2020.

Theo đó, hỗ trợ 67,89 tỷ đồng cho 6 địa phương để khắc phục thiệt hại nặng nề về nhà ở do thiên tai gây ra trong tháng 10/2020 theo Nghị quyết số 165/NQ-CP ngày 5/11/2020 của Chính phủ.

Cụ thể: Quảng Nam (14,320 tỷ đồng), Quảng Trị (4,210 tỷ đồng), Thừa Thiên Huế (1,150 tỷ đồng), Quảng Ngãi (45,220 tỷ đồng), Kon Tum (1,570 tỷ đồng), Gia Lai (1,420 tỷ đồng).

Về nguồn kinh phí hỗ trợ, Quyết định nêu rõ: Đối với các địa phương Quảng Nam, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Kon Tum sử dụng từ nguồn kinh phí đã được tạm cấp từ dự phòng ngân sách trung ương theo Quyết định số 1913/QĐ-TTg ngày 24/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ để thực hiện. Đối với tỉnh Gia Lai thì bổ sung từ dự phòng ngân sách trung ương năm 2021.

Bộ Tài chính chịu trách nhiệm toàn diện trước Thủ tướng Chính phủ, cơ quan thanh tra, kiểm tra và các cơ quan liên quan về các nội dung thông tin, số liệu đã đề xuất báo cáo, bảo đảm theo đúng quy định.

Thu hồi về ngân sách trung ương kinh phí còn dư 8,51 tỷ đồng (trong đó Hà Tĩnh là 8,43 tỷ đồng, Bình Định là 0,08 tỷ đồng) được hỗ trợ tại Quyết định số 2278/QĐ-TTg ngày 31/12/2020.

Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương liên quan khẩn trương tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định mức hỗ trợ chính thức từ ngân sách trung ương cho ngân sách từng địa phương để thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, hỗ trợ dân sinh, di dân khẩn cấp, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và khắc phục cơ sở hạ tầng thiết yếu từ nguồn tạm cấp theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ./.