Công điện của Thủ tướng về sắp xếp tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 209/CĐ-TTg ngày 28/2/2022 gửi Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về việc sắp xếp tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Trước 30/6/2022, các bộ, ngành hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập
Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị tại Văn bản số 1108-CV/VPTW ngày 23/6/2021 của Văn phòng Trung ương Đảng về cơ cấu tổ chức của Chính phủ khóa XV (nhiệm kỳ 2021 - 2026), Nghị quyết số 32/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022, để đẩy mạnh việc sắp xếp tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (bộ, ngành), Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (địa phương), Thủ tướng Chính phủ có ý kiến chỉ đạo như sau:
Đối với các bộ, ngành, khẩn trương rà soát và đẩy mạnh việc sắp xếp, tinh gọn đầu mối tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, ngành theo Thông báo số 16/TB-BCĐĐMSXTCBM ngày 21/1/2022 của Ban Chỉ đạo Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Trên cơ sở kết quả rà soát, các bộ, ngành có trách nhiệm xây dựng dự thảo Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan mình (có Đề án sắp xếp tổ chức bộ máy bên trong kèm theo) gửi Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp thẩm định; và tiếp thu, giải trình, hoàn thiện dự thảo Nghị định theo quy định. Trường hợp các nội dung còn có ý kiến khác nhau (chưa thống nhất với ý kiến thẩm định của Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp) thì bộ, ngành có trách nhiệm báo cáo, xin ý kiến Ban Chỉ đạo trước khi trình Chính phủ xem xét, quyết định.
Thời gian gửi Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp thẩm định dự thảo Nghị định, trình Chính phủ xem xét, quyết định trong tháng 3 năm 2022.
Về sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập khác (không quy định trong Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, ngành), yêu cầu các bộ, ngành rà soát, sắp xếp, tổ chức lại theo hướng:
- Giảm tối thiểu 10% số lượng các đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về tiếp tục đổi mới và tổ chức quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập (Nghị quyết số 19-NQ/TW). Việc sắp xếp thu gọn đầu mối đơn vị sự nghiệp cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, tiêu chí, điều kiện thành lập, có tính kế thừa và phát huy kết quả triển khai sắp xếp giai đoạn 2017 - 2021, tránh cào bằng, bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Chỉ giữ lại các đơn vị thuộc bộ phục vụ nhiệm vụ chính trị và các đơn vị đầu ngành gắn với chức năng, nhiệm vụ của bộ đáp ứng đầy đủ tiêu chí, điều kiện thành lập theo quy định. Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập khác, yêu cầu các bộ, ngành chủ động phối hợp với bộ quản lý ngành, lĩnh vực để xây dựng phương án chuyển về địa phương hoặc về bộ quản lý ngành, lĩnh vực để thống nhất đầu mối quản lý, thực hiện sắp xếp, cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm phù hợp với quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực.
- Đẩy mạnh cơ chế tự chủ theo yêu cầu tại Nghị quyết số 19-NQ/TW và quy định của Chính phủ tại Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị định số 106/2020/NĐ-CP ngày 10/9/2020 về vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập. Khuyến khích các đơn vị nâng cao mức độ tự chủ về tài chính để bảo đảm tính ổn định và phát triển.
Thời gian hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập xong trước ngày 30/6/2022.
Các địa phương tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập
Đối với các địa phương, về tổ chức hành chính, các địa phương tiếp tục rà soát, sắp xếp các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và tổ chức bộ máy bên trong theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm phù hợp với quy định của Chính phủ tại Nghị định số 107/2020/NĐ-CP và Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020.
Về các đơn vị sự nghiệp công lập, các địa phương tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý, đồng thời chủ động xây dựng phương án tiếp nhận các đơn vị sự nghiệp công lập của các bộ, ngành chuyển về địa phương và thực hiện việc sắp xếp, cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng dẫn của bộ quản lý ngành, lĩnh vực.
- Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu: Tiếp tục đẩy mạnh cơ chế tự chủ theo yêu cầu tại Nghị quyết số 19-NQ/TW và quy định của Chính phủ tại Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020, Nghị định số 106/2020/NĐ-CP ngày 10/9/2020 và Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021. Khuyến khích các đơn vị nâng cao mức độ tự chủ về tài chính để bảo đảm tính ổn định và phát triển.
- Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập khác (không cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu): Đề nghị đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ theo hướng tự bảo đảm chi thường xuyên trở lên và chuyển đổi thành công ty cổ phần khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại Nghị định số 150/2020/NĐ-CP ngày 25/12/2020 của Chính phủ về chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần và Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần.
Kết luận của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh, Chủ tịch Ủy ban An ninh hàng không dân dụng quốc gia tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2021, phương hướng nhiệm vụ năm 2022 của Ủy ban An ninh hàng không dân dụng quốc gia
Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 59/TB-VPCP ngày 1/3/2022 kết luận của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh, Chủ tịch Ủy ban An ninh hàng không dân dụng quốc gia tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2021, phương hướng nhiệm vụ năm 2022 của Ủy ban An ninh hàng không dân dụng quốc gia, Phó Thủ tướng đã biểu dương các cơ quan, đơn vị thành viên Ủy ban An ninh hàng không, UBND các địa phương có cảng hàng không, sân bay, các doanh nghiệp hàng không đã nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ năm 2021, đặc biệt trong điều kiện đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp. Các Bộ, ngành, địa phương đã phối hợp đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, an toàn hàng không dân dụng, không để xảy ra sự cố an ninh, an toàn hàng không nghiêm trọng; khắc phục khó khăn, thực hiện tốt mục tiêu kép của Chính phủ "chiến thắng dịch bệnh, phát triển kinh tế", thích ứng an toàn, linh hoạt với tình hình dịch bệnh, giữ vững uy tín của ngành hàng không nói riêng, của Việt Nam nói chung.
Trong năm 2021, diễn biến phức tạp của tình hình dịch bệnh COVID-19 đã tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt đời sống xã hội, số lượng chuyến bay, hành khách, hàng hóa giảm sâu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hàng không. Mặc dù vậy, các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung nguồn lực, ưu tiên cho công tác phòng, chống dịch bệnh, phối hợp tốt, quan tâm sát sao, triển khai thực hiện hiệu quả các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn hàng không, không để xảy ra các sự cố an ninh nghiêm trọng.
Các điểm yếu, hạn chế trong công tác đảm bảo an ninh hàng không được nghiêm túc chấn chỉnh, khắc phục, từng bước nâng cao năng lực bảo đảm an ninh hàng không.
Các sự cố uy hiếp an toàn xảy ra đã được Cục Hàng không Việt Nam khẩn trương điều tra làm rõ nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp và các yếu tố ảnh hưởng nhằm đưa ra các biện pháp khắc phục, phòng ngừa, chú trọng đến việc giám sát công tác khắc phục sau khi xảy ra sự cố của các tổ chức, đơn vị...
Tuy nhiên, do tình hình dịch bệnh COVID-19, một số nhiệm vụ chưa được thực hiện theo kế hoạch công tác năm 2021 của Ủy ban An ninh hàng không (công tác kiểm tra, tập huấn, diễn tập...); công tác tổ chức diễn tập đối phó với hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng cấp ngành/tỉnh chưa được duy trì thực hiện thành nề nếp; vẫn còn tình trạng ách tắc hành khách tại một số sân bay do thiếu kiểm soát, việc sử dụng giấy tờ xác nhận nhân thân không đúng…
Năm 2022, dự báo kinh tế sẽ phục hồi, hoạt động vận tải sẽ tăng mạnh mẽ, trong đó có vận chuyển hàng không, do đó đặt ra những nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với công tác an ninh, an toàn hàng không.
Phó Thủ tướng yêu cầu nhiệm vụ trọng tâm năm 2022 là tiếp tục phối hợp rà soát, đánh giá, hoàn thiện hoặc đề xuất hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (Luật Hàng không dân dụng, Nghị định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ...) về an ninh, an toàn hàng không;
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về công tác bảo đảm an ninh, an toàn hàng không; xây dựng, củng cố văn hóa an ninh hàng không, nâng cao đạo đức công vụ, trách nhiệm nghề nghiệp trong bảo đảm an ninh hàng không.
Giảm thiểu rủi ro an ninh hàng không
Ủy ban An ninh hàng không phối hợp tổ chức tập huấn, huấn luyện, hội thảo chuyên môn về an ninh hàng không cho các cơ quan, đơn vị trong hệ thống bảo đảm an ninh hàng không và ngành hàng không, hình thức tổ chức phù hợp tình hình diễn biến của dịch bệnh COVID-19.
Tổ chức kiểm tra liên ngành về công tác phối hợp bảo đảm an ninh hàng không, phòng chống khủng bố, can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng đối với các địa phương có cảng hàng không, sân bay phù hợp tình hình diễn biến của dịch bệnh COVID-19.
Tổ chức diễn tập cấp quốc gia đối phó với hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng theo kế hoạch được duyệt.
Đồng thời, tổ chức đánh giá rủi ro an ninh hàng không, thực hiện biện pháp giảm thiểu rủi ro an ninh hàng không; chuẩn bị và tổ chức hội nghị đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Đề án Nâng cao năng lực bảo đảm an ninh hàng không; chuẩn bị và tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết của Ủy ban An ninh hàng không theo quy định.
Thành lập lực lượng kiểm soát an ninh hàng không
Phó Thủ tướng giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp chỉ đạo tổ chức lại lực lượng kiểm soát an ninh hàng không để cung cấp dịch vụ bảo đảm an ninh hàng không theo thông lệ quốc tế và thực hiện nhiệm vụ chính trị theo quy định của pháp luật, đảm bảo nguyên tắc độc lập, thống nhất, chuyên nghiệp, không cổ phần hóa, đảm bảo sự lãnh đạo tập trung; làm việc với Bộ Nội vụ để thẩm định việc thành lập lực lượng kiểm soát an ninh hàng không theo quy định.
Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp và đề xuất Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, xây dựng cơ chế, quy định mở các khóa đào tạo chính quy trong hệ thống học viện, nhà trường của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng cho các đối tượng là chỉ huy, quản lý, điều hành lực lượng kiểm soát an ninh hàng không, giám sát viên an ninh hàng không của ngành hàng không.
Phó Thủ tướng giao Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương xây dựng phương án ứng phó tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng và phân định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương liên quan về việc giám sát, cưỡng chế hạ cánh khẩn cấp đối với tàu bay không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ vi phạm vùng hoạt động hàng không dân dụng.
Các Bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm quy định về công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng về chính trị, kinh tế, ngoại giao khoa học - kỹ thuật, văn hóa, xã hội; Chỉ thị, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các văn bản quy định liên quan về tăng cường quản lý, giám sát và thiết lập khu cấm bay, hạn chế bay đối với tàu bay không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ; các quy định về cấm sử dụng tia laser, nguồn sáng có công suất lớn tại khu vực cảng hàng không, sân bay.
Khắc phục tình trạng "cò mồi", "taxi dù" tại các sân bay
Đồng thời, Phó Thủ tướng cũng yêu cầu UBND các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương thực hiện đầy đủ, nghiêm túc công tác phối hợp bảo đảm an ninh, trật tự, an ninh hàng không; khắc phục tình trạng "cò mồi", "taxi dù" hoạt động ngang nhiên, trái phép tại các cảng hàng không, sân bay; triển khai các phương án ngăn chặn, ứng phó việc sử dụng nguồn sáng công suất lớn, đèn chiếu laser, thả diều, tàu bay không người lái, phương tiện bay siêu nhẹ, các hoạt động uy hiếp đến an toàn hàng không...
Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh đã ký Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/2/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 (Chương trình).
Mục tiêu tổng quát của Chương trình là tiếp tục triển khai Chương trình gắn với thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hóa, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững; thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và nông thôn mới cấp thôn, bản. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, thúc đẩy bình đẳng giới. Xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đồng bộ và từng bước hiện đại, bảo đảm môi trường, cảnh quan nông thôn sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn, giàu bản sắc văn hóa truyền thống, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
Mục tiêu cụ thể đến 2025, phấn đấu cả nước có ít nhất 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (miền núi phía Bắc 60%, Đồng bằng sông Hồng 100%, Bắc Trung Bộ 87%, Nam Trung Bộ 80%, Tây Nguyên 68%; Đông Nam Bộ 95%, Đồng bằng sông Cửu Long 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới), trong đó, có khoảng 40% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, ít nhất 10% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và không còn xã dưới 15 tiêu chí; tiếp tục xây dựng nông thôn mới nâng cao và nông thôn mới kiểu mẫu đối với các xã, huyện, tỉnh đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; thu nhập bình quân người dân nông thôn tăng ít nhất 1,5 lần so với năm 2020.
Phấn đấu cả nước ít nhất 50% huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (miền núi phía Bắc 30%; Đồng bằng sông Hồng 90%; Bắc Trung Bộ 45%; Nam Trung Bộ 35%; Tây Nguyên 30%; Đông Nam Bộ 80%; Đồng bằng sông Cửu Long 35% số đơn vị, trong đó, ít nhất 20% số huyện đạt chuẩn công nhận là huyện nông thôn mới nâng cao, huyên nông thôn mới kiểu mẫu. Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có ít nhất 2 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới.
Phấn đấu cả nước có khoảng 17-19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (tỉnh) được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (miền núi phía Bắc phấn đấu có 1 tỉnh, Đồng bằng sông Hồng 10 tỉnh, Bắc Trung Bộ 1 tỉnh, Nam Trung Bộ 1 tỉnh, Tây Nguyên phấn đấu có 1 tỉnh; Đông Nam Bộ 4 tỉnh, Đồng bằng sông Cửu Long 3 tỉnh.
Phấn đấu 60% số thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc (thôn) thuộc các xã đặc biệt khó khăn khu vực biên giới, vùng núi, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới theo các tiêu chí mới do UBND cấp tỉnh quy định.
11 nội dung thành phần của Chương trình
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 có 11 nội dung thành phần gồm:
1- Nâng cao hiệu quả quản lý và thực hiện xây dựng nông thôn mới theo quy hoạch nhằm nâng cao đời sống kinh tế - xã hội nông thôn gắn với quá trình đô thị hóa.
2- Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, cơ bản đồng bộ, hiện đại, đảm bảo kết nối nông thôn - đô thị và kết nối các vùng miền.
3- Tiếp tục thực hiên có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn; triển khai mạnh mẽ Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) nhằm nâng cao giá trị gia tăng, phù hợp với quá trình chuyển đổi số, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển mạnh ngành nghề nông thôn; phát triển du lịch nông thôn; nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã; hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp ở nông thôn, nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn... góp phần nâng cao thu nhập người dân theo hướng bền vững.
4- Giảm nghèo bền vững, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo.
5- Nâng cao chất lượng giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe người dân nông thôn.
6- Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa của người dân nông thôn; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống theo hướng bền vững gắn với phát triển du lịch nông thôn.
7- Nâng cao chất lượng môi trường; xây dựng cảnh quan nông thôn sáng - xanh - sạch - đẹp, an toàn; giữ gìn và khôi phục cảnh quan truyền thống của nông thôn Việt Nam.
8- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng các dịch vụ hành chính công; nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền cơ sở; thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong NTM, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, xây dựng NTM thông minh; bảo đảm và tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân; tăng cường giải pháp nhằm đảm bảo bình đẳng giới và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới.
9- Nâng cao chất lượng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng NTM.
10- Giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội nông thôn.
11- Tăng cường công tác giám sát, đánh giá thực hiện Chương trình; nâng cao năng lực xây dựng NTM; truyền thông về xây dựng NTM; thực hiện Phong trào thi đua cả nước chung sức xây dựng NTM.
Ngân sách nhà nước bố trí cho Chương trình tối thiểu là 196.332 tỷ đồng, trong đó, vốn ngân sách trung ương 39.632 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương 156.700 tỷ đồng. Tổng vốn huy động nguồn lực thực hiện giai đoạn 2021 - 2025 dự kiến khoảng 2.455.212 tỷ đồng.
Thành lập Hội đồng thẩm định Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam ký Quyết định số 276/QĐ-TTg ngày 25/2/2022 thành lập Hội đồng thẩm định Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo Quyết định, Chủ tịch Hội đồng là ông Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ. Phó Chủ tịch Hội đồng là ông Phạm Anh Tuấn, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.
Các ủy viên Hội đồng gồm đại diện lãnh đạo của các Bộ, Cơ quan: Bộ Công an; Bộ Quốc phòng; Bộ Tư pháp; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài chính; Bộ Nội vụ; Bộ Ngoại giao; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Ban Tuyên giáo Trung ương; Báo Nhân dân; Đài Truyền hình Việt Nam; Đài Tiếng nói Việt Nam; Thông tấn xã Việt Nam; Hội Nhà báo Việt Nam; Hội Xuất bản Việt Nam; Học viện Báo chí tuyên truyền.
Ủy viên phản biện là các chuyên gia trong lĩnh vực báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, thông tin đối ngoại, thông tin cơ sở và xuất bản, in, phát hành.
Tư vấn phản biện độc lập: Ông Trần Bình Minh, nguyên Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam; ông Nguyễn Thế Kỷ, nguyên Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, nguyên Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam; ông Vũ Đình Thường, nguyên Vụ trưởng Vụ Báo chí - Xuất bản - Ban Tuyên giáo Trung ương.
Cơ quan thường trực của Hội đồng thẩm định là Bộ Thông tin và Truyền thông.
Hội đồng thẩm định có nhiệm vụ tổ chức thẩm định Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo quy định của pháp luật về quy hoạch.
Hội đồng hoạt động theo hình thức kiêm nhiệm; chấm dứt hoạt động và tự giải thể sau khi Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt./.