In bài viết

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 15/9/2025 (1)

(Chinhphu.vn) - Văn phòng Chính phủ vừa có Thông cáo báo chí chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 15/9/2025 (1).

15/09/2025 17:40

Nghị quyết về tháo gỡ, xử lý vướng mắc để triển khai các dự án trong thời gian Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 chưa được phê duyệt điều chỉnh

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 66.3/2025/NQ-CP ngày 15/9/2025 về tháo gỡ, xử lý vướng mắc để triển khai các dự án trong thời gian Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 chưa được phê duyệt điều chỉnh.

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 15/9/2025 (1)- Ảnh 1.

Nghị quyết quy định cách thức xử lý đối với các trường hợp sử dụng đất có sự mâu thuẫn giữa các quy hoạch hoặc chưa phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt.

Nghị quyết này quy định về biện pháp tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tháo gỡ, xử lý vướng mắc để triển khai các dự án trong thời gian Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 chưa được phê duyệt điều chỉnh.

Phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cho cấp xã sau sắp xếp để quản lý đất đai, không phụ thuộc chỉ tiêu quốc gia đã phân bổ

Về biện pháp tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sau khi sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, Nghị quyết yêu cầu căn cứ Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được phê duyệt trước thời điểm 01/7/2025, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cho các đơn vị hành chính cấp xã sau sắp xếp để thực hiện công tác quản lý đất đai tại địa phương mà không bị ràng buộc bởi các chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia đã được phân bổ theo Nghị quyết số 39/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội về Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, kế hoạch sử dụng đất quốc gia 5 năm (2021 - 2025).

Cơ quan, người có thẩm quyền căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất cấp huyện, kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện đã được phê duyệt trước ngày 01/7/2025 hoặc chỉ tiêu sử dụng đất trong phương án phân bổ và khoanh vùng đất đai của quy hoạch tỉnh được phân bổ đến đơn vị hành chính cấp xã sau sắp xếp hoặc quy hoạch được lập theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn để thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

Cách thức xử lý đối với các trường hợp sử dụng đất có sự mâu thuẫn giữa các quy hoạch

Nghị quyết quy định cách thức xử lý đối với các trường hợp sử dụng đất có sự mâu thuẫn giữa các quy hoạch hoặc chưa phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt, cụ thể như sau: (a) Trường hợp khi thực hiện dự án đã được xác định trong quy hoạch ngành quốc gia, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch được lập theo pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn mà có mâu thuẫn chồng chéo với các quy hoạch ngành khác thì cơ quan, người có thẩm quyền căn cứ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch được lập theo pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn để thực hiện các thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

(b) Đối với trường hợp phải thu hồi đất để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nhưng chưa có trong quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, quy hoạch sử dụng đất an ninh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an gửi văn bản lấy ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất. Trên cơ sở thống nhất của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất, cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật. Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất không thống nhất thì Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

(c) Đối với những dự án đã được chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư hoặc quyết định đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư công, pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư và pháp luật về đầu tư phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt trước ngày Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành mà phải thu hồi đất quốc phòng, đất an ninh, tài sản gắn liền với đất để chuyển giao cho địa phương thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng nhưng diện tích đất dự kiến thu hồi chưa được xác định trong quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, quy hoạch sử dụng đất an ninh là đất chuyển giao cho địa phương thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất thu hồi lấy ý kiến Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với đất quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an đối với đất an ninh. Trên cơ sở thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an thì cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật. Trường hợp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an không thống nhất thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất thu hồi chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin đảm bảo có trong quy hoạch sử dụng đất được duyệt trước ngày 01/8/2024.

(d) Trường hợp phải thu hồi đất quốc phòng, đất an ninh, tài sản gắn liền với đất để chuyển giao cho địa phương thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng nhưng diện tích đất dự kiến thu hồi chưa được xác định trong quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, quy hoạch sử dụng đất an ninh là đất chuyển giao cho địa phương thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất thu hồi, lấy ý kiến của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với đất quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an đối với đất an ninh. Trên cơ sở thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an thì cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật. Trường hợp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an không thống nhất thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Diện tích đất thuộc các dự án quy định tại các khoản b, c, d nêu trên sau khi thu hồi phải được cập nhật khi rà soát, điều chỉnh các quy hoạch theo quy định pháp luật.

Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành đến ngày 28/02/2027. Trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới có hiệu lực thi hành sau ngày Nghị quyết này được thông qua, điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt và trước ngày 01/3/2027 thì các quy định tương ứng được ban hành trong Nghị quyết này chấm dứt hiệu lực.

Trong thời gian các quy định của Nghị quyết này có hiệu lực, nếu quy định về thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước, trình tự, thủ tục trong Nghị quyết này khác với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan thì thực hiện theo quy định tại Nghị quyết này.

Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh phát triển nền y học cổ truyền Việt Nam trong giai đoạn mới 

Phó Thủ tướng Lê Thành Long ký Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 15/9/2025 của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương liên quan đẩy mạnh phát triển nền y học cổ truyền Việt Nam trong giai đoạn mới.

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 15/9/2025 (1)- Ảnh 2.

Đẩy mạnh phát triển y học cổ truyền trong giai đoạn mới

Chỉ thị nêu: Y học cổ truyền Việt Nam là tài sản văn hoá quý báu của dân tộc Việt Nam, được hình thành, phát triển gắn với lịch sử phát triển của đất nước. Xác định tầm quan trọng của nền y học cổ truyền, Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm bảo tồn, kế thừa và phát triển, coi đây vừa là trách nhiệm vừa là sứ mệnh để giữ gìn các giá trị văn hoá, truyền thống lịch sử đồng thời đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân trong tình hình mới.

Thời gian qua y học cổ truyền Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng đáng khích lệ: Hệ thống khám, chữa bệnh đã được đầu tư nâng cấp; mạng lưới y học cổ truyền ở tuyến y tế cơ sở được củng cố và phát triển; dịch vụ khám, chữa bệnh trong lĩnh vực y học cổ truyền ngày càng phong phú và đa dạng hóa, chất lượng được nâng cao... Tuy nhiên, bên cạnh các thành quả đạt được vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế, chưa phát huy được tiềm năng, thế mạnh của y học cổ truyền, chưa tạo được dấu ấn mạnh mẽ trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời có nguy cơ tụt hậu so với các nước có nền y học cổ truyền phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Để phát huy hơn nữa vị thế, vai trò của nền y học cổ truyền Việt Nam trong chăm sóc sức khỏe nhân dân gắn với phát triển kinh tế - xã hội, kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố và cơ quan, tổ chức có liên quan tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, tạo sự thống nhất trong mọi hoạt động giữa các cấp chính quyền với các cấp ủy Đảng, tổ chức chính trị - xã hội; tiếp tục triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, kịp thời, hiệu quả, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu đề ra trong Chỉ thị số 24-CT/TW ngày 04 tháng 7 năm 2008, Kết luận số 86-KL/TW ngày 10 tháng 7 năm 2024 của Ban Bí thư; Quyết định số 1893/QĐ-TTg ngày 25 tháng 12 năm 2019 và Quyết định số 1280/QĐ-TTg ngày 28 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ; phân công nhiệm vụ theo tinh thần 6 rõ: "rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ thẩm quyền, rõ trách nhiệm, rõ kết quả" và tăng cường kiểm tra, đôn đốc, giám sát thực hiện phấn đấu đến năm 2030 hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, đề án đã được đề ra.

Nghiên cứu mở rộng phạm vi thanh toán bảo hiểm y tế đối với dịch vụ khám, chữa bệnh bằng y học cổ truyền

Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, các bộ, ngành liên quan rà soát, nghiên cứu hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp với đặc thù của y học cổ truyền nhằm thúc đẩy y học cổ truyền phát triển đúng với tiềm năng vốn có, tăng cường kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại; nghiên cứu mở rộng phạm vi sử dụng, thanh toán bảo hiểm y tế đối với các loại thuốc cổ truyền, thuốc dược liệu, dược liệu, dịch vụ khám, chữa bệnh bằng y học cổ truyền; đề xuất xây dựng Luật về y học cổ truyền.

Đồng thời, Bộ Y tế phối hợp với Bộ Nội vụ để hoàn thiện tiêu chuẩn, chức danh nghề nghiệp trong lĩnh vực y học cổ truyền.

Mở rộng quy mô các cơ sở khám chữa bệnh y học cổ truyền

Bộ Y tế chủ trì, nghiên cứu, đề xuất đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, mở rộng quy mô các cơ sở khám chữa bệnh y học cổ truyền phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các địa phương; chú trọng lựa chọn thứ tự ưu tiên đầu tư và ưu tiên bố trí nguồn đầu tư công để đầu tư đối với một số cơ sở đang có yêu cầu cấp bách.

Tiếp tục xây dựng hướng dẫn chẩn đoán và điều trị, các quy trình kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnh, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại, tập trung vào một số thế mạnh như châm cứu và các phương pháp điều trị không dùng thuốc khác.

Nghiên cứu phát triển thuốc cổ truyền và bảo tồn nguồn dược liệu quý hiếm

Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính nghiên cứu, đề xuất các nhiệm vụ khoa học công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước để tập trung nghiên cứu một số bài thuốc, nghiên cứu phát triển các sản phẩm từ dược liệu, thuốc cổ truyền...; chủ động nghiên cứu, đề xuất, tổ chức thực hiện các chính sách, cơ chế phù hợp về nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực y học cổ truyền theo yêu cầu của Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ và đổi mới, sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, phù hợp với quy định của pháp luật về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; nghiên cứu đề xuất cơ chế phù hợp để chi ngân sách, đầu tư cho hoạt động nghiên cứu lâm sàng, nghiên cứu dinh dưỡng trong y học cổ truyền nhằm hỗ trợ hiệu quả công tác phòng bệnh, điều trị và phục hồi sức khỏe.

Bên cạnh đó, Bộ Y tế chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn toàn diện trong công tác phát triển nguồn dược liệu trong nước theo hướng công nghiệp; ban hành bản đồ quy hoạch vùng trồng dược liệu cấp quốc gia và địa phương; bảo tồn nguồn dược liệu quý hiếm, đặc hữu; chuẩn hóa các quy trình nuôi trồng, thu hái, bảo quản, chế biến dược liệu đảm bảo chất lượng và an toàn, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế (GACP-WHO, ORGANIC...), gắn với việc thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng công nghệ số nhằm kiểm soát chất lượng, minh bạch hóa chuỗi cung ứng và phục vụ mục tiêu xuất khẩu.

Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng dược liệu, bài thuốc...

Cùng với đó là đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực y học cổ truyền, nhất là nguồn nhân lực chuyên sâu, chất lượng cao, tạo điều kiện cho đội ngũ y, bác sỹ y học cổ truyền tiếp cận với các kỹ thuật hiện đại để tăng chất lượng kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số thuộc lĩnh vực y học cổ truyền, tập trung số hóa các tài liệu, tư liệu quý về y học cổ truyền, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng dược liệu, các vị thuốc, cây thuốc, bài thuốc, thầy thuốc tiêu biểu, công trình khoa học để dễ dàng bảo tồn và tra cứu; chỉ đạo các địa phương, đơn vị đẩy mạnh chia sẻ thông tin về y học cổ truyền tại địa phương, đơn vị; đẩy mạnh, tăng cường, nâng cao hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế trong các diễn đàn, khuôn khổ song phương, đa phương, tập trung các lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh và đang có nhu cầu (giao lưu học thuật, trao đổi kinh nghiệm, hợp tác nghiên cứu khoa học, đào tạo và trao đổi nhân lực, thu hút đầu tư nước ngoài...).

Bô Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành liên quan tổ chức xây dựng, phê duyệt, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt các đề án, chương trình hợp tác với các nước có nền y học cổ truyền phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ...; chủ động triển khai các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, kế hoạch đã ký kết.

Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu Bộ Tài chính trên cơ sở các nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đề xuất của các bộ, cơ quan trung ương, Bộ Tài chính chủ trì, tổng hợp, cân đối, bố trí nguồn ngân sách để thực hiện, báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, pháp luật về đầu tư công, phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước.

Bộ Khoa học và Công nghệ bố trí kinh phí để triển khai các nhiệm vụ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được phê duyệt theo quy định, lưu ý xử lý kịp thời các vấn đề đặc thù của y học cổ truyền; chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế chỉ đạo việc thực hiện chính sách về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các bài thuốc, phương pháp khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức thực hiện hiệu quả hoạt động cho thuê môi trường rừng để phát triển dược liệu; bảo vệ, khai thác, chia sẻ lợi ích từ nguồn gen dược liệu; phối hợp với Bộ Y tế chỉ đạo các địa phương, đơn vị phát triển nguồn dược liệu trong nước, bảo tồn nguồn dược liệu quý hiếm, tổ chức khai thác nguồn tài nguyên dược liệu theo hướng khoa học và bền vững; chuẩn hóa các quy trình nuôi trồng, thu hái, bảo quản, chế biến dược liệu nhằm đảm bảo chất lượng và an toàn khi sử dụng; chỉ đạo, hỗ trợ kết nối hoạt động nuôi trồng, chế biến, thương mại các sản phẩm dược liệu, từ dược liệu theo mô hình OCOP.

Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế và các địa phương trong việc lồng ghép nội dung phát triển mạng lưới cơ sở y học cổ truyền vào các quy hoạch xây dựng đô thị, khu du lịch, sinh thái và nông thôn, bảo đảm đồng bộ về hạ tầng.

Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế tổ chức xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp kết nối, hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm khai thác hiệu quả thị trường ngoài nước; tổ chức quản lý sản phẩm lưu thông trên thị trường.

Phát triển các loại hình du lịch y tế, du lịch chăm sóc sức khỏe có sử dụng y học cổ truyền

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế trong tổ chức thực hiện các hoạt động thông tin, quảng bá y học cổ truyền gắn với quảng bá văn hóa, bản sắc dân tộc và chỉ đạo phát triển các loại hình du lịch y tế, du lịch chăm sóc sức khỏe có sử dụng y học cổ truyền; quản lý chặt chẽ, hiệu quả hoạt động quảng cáo về y học cổ truyền.

Bộ Dân tộc và Tôn giáo tổ chức thực hiện có hiệu quả dự án phát triển dược liệu trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; phối hợp với Bộ Y tế tổ chức điều tra, bảo tồn, đánh giá và chuyển giao các tri thức y học cổ truyền trong cộng đồng dân tộc thiểu số.

Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Y tế triển khai các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, kế hoạch thuộc lĩnh vực y học cổ truyền đã ký kết; hỗ trợ Bộ Y tế trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện các Chương trình, kế hoạch, dự án hợp tác quốc tế về y học cổ truyền; tổ chức quảng bá, giới thiệu hình ảnh, thương hiệu, giá trị văn hóa của y học cổ truyền Việt Nam trên thế giới.

Hội Đông y Việt Nam đẩy mạnh hoạt động sưu tầm, kế thừa, bảo tồn, phát triển các bài thuốc hay, cây thuốc quý, các phương pháp chữa bệnh hiệu quả, tổ chức tuyên truyền, phổ biến đến hội viên và nhân dân trong nước biết, sử dụng an toàn, hiệu quả.

Phấn đấu mỗi tỉnh có ít nhất 01 bệnh viện hiện đại kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong khám và điều trị

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm ưu tiên bố trí ngân sách địa phương để thực hiện công tác phát triển y học cổ truyền; ban hành chính sách, cơ chế ưu đãi theo thẩm quyền nhằm thúc đẩy, khuyến khích, thu hút đầu tư của xã hội phát triển y học cổ truyền trên địa bàn; đầu tư, nâng cấp bệnh viện y học cổ truyền theo hướng hiện đại hóa, phấn đấu mỗi tỉnh có ít nhất 01 bệnh viện với cơ sở hạ tầng, thiết bị hiện đại để thực hiện có hiệu quả công tác kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong khám và điều trị; tổ chức kế thừa, bảo tồn gìn giữ và khai thác hợp lý bài thuốc quý, cây thuốc bản địa và phát triển dược liệu truyền thống của địa phương, xây dựng bản đồ quy hoạch dược liệu tại địa phương; lồng ghép công tác phát triển y học cổ truyền vào trong các chương trình, dự án phát triển y tế dự phòng và y tế cơ sở tại địa phương.

Các địa phương chỉ đạo, tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động nuôi trồng, sản xuất, kinh doanh dược liệu, thuốc cổ truyền và cung ứng dịch vụ khám, chữa bệnh bằng y học cổ truyền.

Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 68/2015/NĐ-CP quy định đăng ký quốc tịch và đăng ký các quyền đối với tàu bay

Ngày 15/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị định 246/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 68/2015/NĐ-CP ngày 18/8/2015 của Chính phủ quy định đăng ký quốc tịch và đăng ký các quyền đối với tàu bay đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 64/2022/NĐ-CP ngày 15/9/2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực hàng không dân dụng.

Trong đó, Nghị định 246/2025/NĐ-CP bổ sung khoản 3 vào Điều 8 Nghị định 68/2015/NĐ-CP quy định về các trường hợp xóa đăng ký quốc tịch tàu bay.

Nghị định 246/2025/NĐ-CP quy định: trường hợp văn bản IDERA đã được đăng ký theo quy định tại Nghị định này thì chỉ người được chỉ định tại văn bản IDERA có quyền đề nghị xóa đăng ký quốc tịch tàu bay.

Cùng với đó, Nghị định 246/2025/NĐ-CP đã bổ sung một số quy định về thủ tục xóa đăng ký quốc tịch tàu bay theo đề nghị của người được chỉ định tại văn bản IDERA vào Điều 9 Nghị định 68/2015/NĐ-CP.

Theo quy định, người đề nghị xóa đăng ký quốc tịch tàu bay nộp 01 bộ hồ sơ trực tiếp hoặc qua hệ thống bưu chính hoặc qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến đến Cục Hàng không Việt Nam và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của các thông tin ghi trong hồ sơ.

Hồ sơ đề nghị xóa đăng ký quốc tịch tàu bay

Hồ sơ đề nghị xóa đăng ký quốc tịch tàu bay và chứng nhận đủ điều kiện bay xuất khẩu theo đề nghị của người được chỉ định tại văn bản IDERA, bao gồm:

- Tờ khai theo Mẫu số 02a quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 246/2025/NĐ-CP;

- Bản sao từ sổ gốc hoặc bản sao chụp từ bản chính hoặc bản sao xuất trình bản chính để đối chiếu hoặc bản sao điện tử từ sổ gốc hoặc bản sao điện tử có chứng thực từ bản chính giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách pháp lý của người đề nghị xóa đăng ký trong trường hợp người đề nghị là tổ chức, cá nhân Việt Nam.

Trường hợp giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách pháp lý của người đề nghị xóa đăng ký do cơ quan nước ngoài có thẩm quyền cấp thì các giấy tờ, tài liệu này phải được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp được miễn theo quy định của pháp luật Việt Nam;

- Văn bản đồng ý xóa đăng ký và xuất khẩu tàu bay của những người có quyền lợi quốc tế đã được đăng ký có thứ tự ưu tiên cao hơn so với quyền lợi quốc tế của người đề nghị xóa đăng ký hoặc có tài liệu chứng minh các quyền lợi quốc tế được đăng ký có thứ tự ưu tiên cao hơn đã được thực hiện;

- Trường hợp người được chỉ định tại văn bản IDERA là người nhận bảo đảm bằng tàu bay, hồ sơ phải bao gồm cả tài liệu chứng minh người đề nghị xóa đăng ký đã thông báo bằng văn bản đến những người có quyền lợi quốc tế đã được đăng ký, chủ sở hữu tàu bay, người đề nghị đăng ký quốc tịch tàu bay về việc đề nghị xóa đăng ký tàu bay ít nhất 10 ngày làm việc trước ngày nộp hồ sơ đề nghị.

Cấp Giấy chứng nhận xóa đăng ký quốc tịch tàu bay Việt Nam sau 5 ngày

Nghị định 246/2025/NĐ-CP nêu rõ, trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, Cục Hàng không Việt Nam thực hiện việc cấp Giấy chứng nhận xóa đăng ký quốc tịch tàu bay Việt Nam theo Mẫu số 06 quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 246/2025/NĐ-CP và cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện bay xuất khẩu theo Mẫu số 06a quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 246/2025/NĐ-CP đối với trường hợp xóa đăng ký quốc tịch tàu bay theo đề nghị của người được chỉ định tại văn bản IDERA; thu hồi Giấy chứng nhận tàu bay mang quốc tịch Việt Nam; trường hợp không cấp, Cục Hàng không Việt Nam phải trả lời người đề nghị bằng văn bản theo Mẫu số 15 quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 246/2025/NĐ-CP.

Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, trong thời hạn 2 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ, Cục Hàng không Việt Nam có văn bản hướng dẫn người đề nghị xóa đăng ký hoàn chỉnh hồ sơ theo quy định.

Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp về xây dựng, thẩm định, công bố tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực đường sắt và nguồn vốn cho các dự án đường sắt

Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo số 483/TB-VPCP ngày 15/9/2025 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp về xây dựng, thẩm định, công bố tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực đường sắt và nguồn vốn cho các dự án đường sắt.

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 15/9/2025 (1)- Ảnh 3.

Lựa chọn công nghệ tối ưu, an toàn nhất để thực hiện đường sắt tốc độ cao

Tại Thông báo, Thủ tướng hoan nghênh Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ, các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị liên quan đã nhanh chóng, tích cực thực hiện rà soát, xây dựng kế hoạch triển khai tiêu chuẩn đường sắt theo chỉ đạo của Thường trực Chính phủ.

Thủ tướng yêu cầu Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ, các cơ quan, đơn vị liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao khẩn trương thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ Thường trực Chính phủ giao tại Thông báo số 462/TB-VPCP ngày 05 tháng 9 năm 2025: căn cứ chỉ đạo của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, kinh nghiệm quốc tế, điều kiện thực tế của Việt Nam lựa chọn công nghệ tối ưu, an toàn hiệu quả nhất; xây dựng, thẩm định, công bố các tiêu chuẩn, quy chuẩn đối với đường sắt tốc độ cao, đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng theo đúng quy trình, thủ tục, thẩm quyền và quy định, hoàn thành trong tháng 10 năm 2025; trên cơ sở đó, xem xét lựa chọn hình thức đầu tư, nhà đầu tư theo đúng quy trình, thủ tục, thẩm quyền và quy định pháp luật trong tháng 10 năm 2025; báo cáo Thủ tướng Chính phủ những nội dung vượt thẩm quyền.

Bộ Ngoại giao, Bộ Xây dựng chủ động phối hợp với phía Trung Quốc để chuẩn bị Phiên họp thứ nhất Ủy ban liên hợp hợp tác đường sắt Việt Nam - Trung Quốc để bàn, trao đổi, đề nghị phía Trung Quốc về: Hiệp định nối ray; chỉ định thầu tư vấn thiết kế kỹ thuật; yêu cầu chuyển giao công nghệ; đào tạo nhân lực,…

Bảo đảm khởi công Dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng vào 19/12/2025

Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ động triển khai các công việc liên quan đến đất đai, đất rừng, thẩm định đánh giá tác động môi trường của Dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, kịp thời hướng dẫn các địa phương thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định pháp luật; bảo đảm khởi công dự án ngày 19 tháng 12 năm 2025.

Bộ Xây dựng đẩy nhanh tiến độ công tác lập Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng để khởi công các hạng mục của dự án vào ngày 19 tháng 12 năm 2025; phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường cập nhập số liệu về đất lúa, đất rừng khi có điều chỉnh hướng tuyến theo quy định; phối hợp với địa phương chủ động thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Dự án theo Nghị quyết của Quốc hội; phối hợp với Bộ Tài chính dự kiến nguồn vốn, kế hoạch vốn cho dự án (xác định vốn ngân sách nhà nước của Việt Nam, vốn vay phía Trung Quốc), hoàn thành trong tháng 9 năm 2025.

Thủ tướng yêu cầu các Bộ: Xây dựng, Khoa học và Công nghệ, Tài chính, Ngoại giao theo chức năng, nhiệm vụ định kỳ thứ Bảy hằng tuần báo cáo Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ: Trần Hồng Hà, Bùi Thanh Sơn, Hồ Đức Phớc, Nguyễn Chí Dũng về tình hình thực hiện các nhiệm vụ được giao; chủ động giải quyết theo thẩm quyền những khó khăn, vướng mắc, nếu vượt thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo quy định.

Văn phòng Chính phủ đôn đốc các nhiệm vụ của các bộ, cơ quan thực hiện nhiệm vụ được giao tại Thông báo số 462/TB-VPCP ngày 05 tháng 9 năm 2025 và Thông báo này; báo cáo các Phó Thủ tướng Chính phủ để xem xét chỉ đạo; vượt thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Xử lý thông tin phản ánh liên quan đến xuất khẩu cá ngừ

Văn phòng Chính phủ có Văn bản số 8640/VPCP-NN truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về việc xử lý thông tin phản ánh liên quan đến xuất khẩu cá ngừ.

Báo điện tử Vietnambiz có bài viết ngày 19/8/2025 "VASEP: Xuất khẩu cá ngừ dự báo khó đạt mục tiêu cả năm".

Bài báo nêu, theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP), xuất khẩu cá ngừ Việt Nam đang chững lại khi kim ngạch tháng 7 giảm 20% so với cùng kỳ, kéo lũy kế 7 tháng xuống còn gần 542 triệu USD, thấp hơn 3% so với năm trước.

VASEP cho biết, từ ngày 7/8, Mỹ bắt đầu áp thuế đối ứng mới cho từng quốc gia. Sự chênh lệch về mức thuế áp cho các sản phẩm của Việt Nam với các nước đối thủ như Thái Lan, Indonesia hay Ecuador… đang làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam.

Bên cạnh đó, những bất ổn về địa chính trị, logistics và biến động nhu cầu tại một số thị trường trọng điểm như Nga, Israel, Chile… cũng đang tác động không nhỏ tới xuất khẩu sang các thị trường này.

Trong khi đó, những nút thắt về quy định trong hoạt động đánh bắt, chế biến và xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam vẫn chưa được tháo gỡ. Doanh nghiệp cá ngừ đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Do đó, Hiệp hội dự báo năm nay cá ngừ Việt Nam khó có thể bứt phá và giữ vững được thị phần.

Về việc này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính giao Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghiên cứu thông tin báo nêu; chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan đánh giá tình hình xuất khẩu cá ngừ năm 2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc theo thẩm quyền và quy định./.