Nghị quyết phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 2/2022
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 28/2/2022 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 2/2022.
Tại Nghị quyết, Chính phủ hoan nghênh các Bộ chủ trì xây dựng, thẩm định các dự án luật trình Chính phủ thời gian qua. Các dự án đã cơ bản tập trung cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, Hiến pháp, các kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư... bám sát thực tiễn nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cũng như xử lý các vấn đề mới phát sinh. Tiến độ soạn thảo các dự án được đẩy nhanh hơn, chất lượng từng bước được nâng lên. Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống và công tác chỉ đạo, điều hành cho thấy còn nhiều vấn đề, nút thắt của các quy định pháp luật đang đặt ra, như vấn đề liên quan tới việc quản lý tài nguyên, khoáng sản, các mặt hàng quan trọng, thiết yếu, các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô... Đặc biệt, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, đòi hỏi chúng ta phải khẩn trương tháo gỡ những nút thắt, khó khăn, vướng mắc để triển khai thực hiện các Chương trình có hiệu quả, phù hợp thực tiễn.
Năm 2022, Chính phủ tiếp tục quan tâm công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, bảo đảm xứng tầm với một trong ba đột phá chiến lược, trong đó tập trung sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật, nhất là các vấn đề thực tiễn mới phát sinh, cần điều chỉnh để tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Trưởng ngành thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết Phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 01/2022; tiếp tục tập trung, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế thuộc lĩnh vực quản lý; phát hiện các khó khăn, vướng mắc, các vấn đề mới phát sinh cần điều chỉnh, kịp thời sửa đổi hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi để phù hợp tình hình thực tiễn, đáp ứng mong muốn của Nhân dân, tăng khả thi của pháp luật. Trong quá trình soạn thảo các dự án luật cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan; lấy ý kiến đối tượng tác động, huy động trí tuệ tập thể, kinh nghiệm của các chuyên gia, nhà khoa học; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông để truyền thông kịp thời, tăng cường sự phản biện trong xã hội, tạo đồng thuận trong quá trình xây dựng, trình, ban hành văn bản pháp luật.
Nâng cao chất lượng xây dựng văn bản pháp luật
Bộ Tư pháp tiếp tục kiểm tra, đôn đốc công tác xây dựng văn bản pháp luật của các bộ, bảo đảm việc xây dựng và hoàn thiện thể chế đúng quy định về trình tự, thời hạn và nâng cao chất lượng. Đồng thời, khẩn trương nghiên cứu, đề xuất các chế độ, chính sách, nhân lực, cơ sở vật chất cho công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo điều kiện tốt nhất cho công tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế, xứng tầm với nhiệm vụ là một trong những đột phá chiến lược.
Tại Nghị quyết, Chính phủ quyết nghị một số nội dung về dự án Luật Thanh tra (sửa đổi); dự án Luật Dầu khí (sửa đổi); đề nghị xây dựng dự án Luật Hợp tác xã (sửa đổi); về đề nghị xây dựng dự án Luật Đấu thầu (sửa đổi) …
Về dự án Luật Thanh tra (sửa đổi), Chính phủ cơ bản thống nhất với nội dung của dự án Luật do Thanh tra Chính phủ trình.
Việc xây dựng, ban hành Luật Thanh tra (sửa đổi) là cần thiết, nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của Luật Thanh tra hiện hành, tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra nhà nước, bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, đáp ứng yêu cầu tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, đồng thời khuyến khích đổi mới sáng tạo, tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
Chính phủ yêu cầu Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các bộ, ngành hoàn thiện dự án Luật, tập trung vào: Phạm vi, đối tượng thanh tra cần được quy định cho phù hợp, bảo đảm rõ ràng, minh bạch, giảm thiểu tối đa nguy cơ chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ trống trong hoạt động thanh tra. Về trình tự, thủ tục thanh tra, cần quy định đơn giản, dễ thực hiện, dễ kiểm tra giám sát; có sự phân biệt giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Về nguyên tắc, không quy định tổ chức bộ máy trong Luật. Việc thành lập thanh tra chuyên ngành, thanh tra cấp tổng cục, cục trực thuộc bộ, Thanh tra sở cần quy định linh hoạt; giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập hoặc phân quyền cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập theo yêu cầu quản lý và tổng biên chế được giao.
Hoạt động thanh tra không chỉ là của cơ quan có chức năng quản lý nhà nước theo nguyên tắc ở đâu có quản lý nhà nước ở đó có thanh tra, mà ngay cả một số cơ quan nhà nước không có chức năng quản lý nhà nước nhưng nếu cần cũng có thể có thanh tra để thực hiện chức năng tổ chức thi hành pháp luật có hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Theo đó, dự án Luật không quy định cụ thể việc thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ban Cơ yếu Chính phủ, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp mà quy định mang tính nguyên tắc linh hoạt, bao quát theo hướng Chính phủ quy định việc thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành tại cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác ở Trung ương và địa phương có chức năng, nhiệm vụ đặc thù trong tổ chức thi hành pháp luật; đồng thời, Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
Về Dự án Luật Dầu khí (sửa đổi), Chính phủ cơ bản thống nhất quan điểm về các vấn đề lớn của dự án Luật; giao Bộ Công Thương tiếp tục thảo luận, lấy ý kiến tham vấn các cơ quan liên quan, xin ý kiến các cơ quan của Quốc hội, hoàn thiện Dự án Luật bảo đảm tiến độ, chất lượng dự án Luật trình Quốc hội.
Chính phủ yêu cầu Bộ Công Thương phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu tiếp thu tối đa ý kiến Thành viên Chính phủ hoàn thiện Dự án Luật theo hướng:
Hoàn thiện quy định nguyên tắc các vấn đề tài chính cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) trong dự thảo Luật nhằm minh bạch cơ chế tài chính đặc thù của PVN, bảo đảm thống nhất, đồng bộ với pháp luật ngân sách nhà nước, kế toán, kiểm toán và bảo đảm lợi ích Nhà nước.
Hoàn thiện quy định phân cấp cho Hội đồng Thành viên PVN quyết định, chịu trách nhiệm việc góp vốn tham gia các hợp đồng dầu khí gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ theo thẩm quyền của Bộ Công Thương, các Bộ liên quan và Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Quy định rõ trách nhiệm của Cơ quan đại diện chủ sở hữu, Hội đồng thành viên PVN trong việc phê duyệt các vấn đề liên quan đến sử dụng vốn nhà nước của PVN và doanh nghiệp 100% vốn của PVN khi thực hiện hoạt động dầu khí, nhằm khắc phục vướng mắc về quy trình, thủ tục góp vốn, đầu tư, xây dựng trên đất liền, trên biển, kiểm soát rủi ro của PVN và doanh nghiệp 100% vốn của PVN phù hợp với nguyên tắc quản lý, sử dụng vốn nhà nước, quyền đầu tư kinh doanh, trách nhiệm của doanh nghiệp, trong đó quy định rõ vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của Bộ Công Thương, các Bộ và quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước của Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Bộ Công Thương phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp bảo đảm phân định, lý giải rõ căn cứ áp dụng quy định chung và quy định đặc thù áp dụng Luật này trong quá trình sửa đổi Luật Giá, Luật Đấu thầu, Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Ngân sách nhà nước, pháp luật thuế... bảo đảm thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Bộ Công Thương tập trung hoàn thiện dự án Luật, bảo đảm chất lượng dự án Luật theo yêu cầu của Chính phủ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi trình Quốc hội.
Thực hiện triệt để đấu thầu qua mạng
Về Đề nghị xây dựng dự án Luật Đấu thầu (sửa đổi), Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xác định rõ phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc áp dụng Luật Đấu thầu, bảo đảm đồng bộ với quy định của pháp luật về đất đai, đầu tư, pháp luật liên quan về đấu giá đất, đấu thầu, lựa chọn nhà đầu tư, quy định áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm đồng bộ của hệ thống pháp luật và khả thi.
Hoàn thiện các quy định cụ thể hóa chính sách về các hình thức lựa chọn nhà thầu, quy định rõ các trường hợp đấu thầu và chỉ định thầu, lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt... quy định cụ thể về điều kiện áp dụng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, rõ trách nhiệm của người quyết định chỉ định thầu, hình thức lựa chọn nhà thầu, người phê duyệt hồ sơ mời thầu, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư...
Quy định đơn giản hóa quy trình, thủ tục hoạt động đấu thầu lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, giảm thời gian, chi phí trong hoạt động đấu thầu, bảo đảm tính độc lập, khách quan, cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả; quy định rõ thẩm quyền, cá thể hóa trách nhiệm của thẩm định, phê duyệt hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, kế hoạch lựa chọn nhà thầu, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu; thực hiện triệt để đấu thầu qua mạng để giảm thủ tục, hạn chế tiêu cực trong đấu thầu.
Rà soát quy định nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước trong hoạt động đấu thầu, bảo đảm ngăn chặn hiệu quả, triệt để tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong hoạt động đấu thầu, quy định rõ trình tự, thủ tục, trách nhiệm thực hiện gắn với cơ chế thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát; hoàn thiện hệ thống chế tài, xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật đấu thầu; hoàn thiện quy định về công bố thông tin công khai, minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình, bao gồm cả thông tin về vi phạm pháp luật đấu thầu của tổ chức, cá nhân.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu, hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Dự án Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp bổ sung dự án Luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, tháng 10 năm 2022.
Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp Thường trực Chính phủ Về Đề án "Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2021-2025"
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo số 57/TB-VPCP ngày 28/2/2022 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp Thường trực Chính phủ Về Đề án "Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2021-2025".
Tại Thông báo trên, Thủ tướng đánh giá cao Bộ Tài chính trong việc chuẩn bị, xây dựng và trình Đề án; các cơ quan cơ bản đồng tình với các nội dung của Đề án và có nhiều ý kiến tham gia xác đáng. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến các đại biểu dự họp tập trung vào phạm vi cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước để hoàn thiện Đề án và Dự thảo Quyết định, trình Phó Thủ tướng Lê Minh Khái xem xét, quyết định trong tháng 02 năm 2022.
Tránh đồng nhất việc cơ cấu lại là thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp
Thủ tướng nhấn mạnh lưu ý tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách, bảo đảm kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, DNNN làm nòng cốt, ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp theo các chủ trương của Đảng.
Cơ cấu lại có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ; duy trì, củng cố và phát triển các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hiệu quả, các tập đoàn, tổng công ty có thương hiệu tốt. Làm rõ, tránh đồng nhất việc cơ cấu lại là thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp.
Cải cách thủ tục hành chính mạnh mẽ, đơn giản hóa, tránh rườm rà, lãng phí để đẩy mạnh công tác sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp.
Cổ phần hóa bảo đảm thực chất, hiệu quả
Thủ tướng yêu cầu cổ phần hóa phải bảo đảm thực chất, hiệu quả, không làm mất thương hiệu, bản sắc doanh nghiệp; đánh giá, xác định đầy đủ các nguồn lực về vốn, đất đai, thương hiệu trong quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Chú trọng nâng cao chất lượng công tác quản trị doanh nghiệp, điều chỉnh phương thức quản trị doanh nghiệp, cạnh tranh theo cơ chế thị trường; có giải pháp cụ thể, rõ ràng để phân bổ hiệu quả nguồn lực của Nhà nước; tối ưu hóa các nguồn lực về vốn, đất đai, thương hiệu… tại doanh nghiệp; quản lý chặt chẽ vốn, tài sản nhà nước, vốn, tài sản doanh nghiệp theo đúng quy định của pháp luật.
Trao quyền chủ động hơn cho doanh nghiệp
Đồng thời, Thủ tướng yêu cầu đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, trao quyền chủ động hơn cho doanh nghiệp gắn với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong doanh nghiệp, thường xuyên thực hiện giám sát, kiểm tra, thanh tra.
Công khai, minh bạch, dân chủ, khách quan trong công tác cán bộ, có quy định về khen thưởng, xử phạt nghiêm minh gắn với trách nhiệm trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Phân công, giao nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương; phân định rõ nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp; tạo sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ, có kết quả cụ thể trong tổ chức thực hiện các nội dung cơ cấu lại doanh nghiệp. Hàng quý, sáu tháng, hàng năm thực hiện rà soát, báo cáo, kịp thời tháo gỡ khó khăn, điều chỉnh phù hợp với thực tế triển khai.
Thủ tướng yêu cầu Ban Cán sự đảng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng báo cáo cấp có thẩm quyền về việc tổ chức sơ kết, đánh giá toàn diện việc thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương, khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN để báo cáo Bộ Chính trị xem xét, trình Ban chấp hành Trung ương.
Ban hành Khung hành động đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh đã ký Quyết định 277/QĐ-TTg ban hành Khung hành động đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.
Trong đó, về cải thiện kết quả phát triển con người cho đồng bào dân tộc thiểu số, trong tháng 3/2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ ban hành Quyết định thiết lập cơ chế tổ chức thực hiện giai đoạn 2 Đề án Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số, đã phê duyệt tại Quyết định số 2805/QĐ-BGDĐT ngày 15/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; hoàn thiện dự thảo Thông tư quy định về tổ chức và hoạt động của các trường phổ thông dân tộc nội trú và dự thảo Thông tư quy định về tổ chức và hoạt động của các trường phổ thông dân tộc bán trú.
Dự kiến trong tháng 3/2022, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội sẽ ban hành Thông tư hướng dẫn về công tác tư vấn hướng nghiệp, việc làm, hỗ trợ khởi nghiệp cho học sinh, sinh viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Cũng trong tháng 3, Chính phủ sẽ ban hành Nghị quyết quy định về chế độ bồi dưỡng hàng tháng cho nhân viên y tế thôn bản và cô đỡ thôn bản để củng cố mạng lưới nhân viên y tế, cô đỡ thôn bản.
Về tăng cường quản trị và quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia, dự kiến trong tháng 3/2022, Chính phủ sẽ ban hành Nghị định quy định về cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện chung cho ba Chương trình mục tiêu quốc gia, bao gồm: (i) lập kế hoạch thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia có sự tham gia của cộng đồng tại địa bàn cấp xã, (ii) quy định chung trong tổ chức thực hiện hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất, và (iii) quy định đặc thù chung trong tổ chức thực hiện dự án đầu tư cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ, kỹ thuật không phức tạp.
Ủy ban Dân tộc sẽ ban hành Thông tư thiết lập quy trình giám sát, đánh giá dựa trên kết quả của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021 - 2030, bao gồm các chỉ số thúc đẩy bình đẳng giới và được phân tổ theo giới.
Thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành tại Hội nghị trực tuyến về tình hình xử lý hàng hóa ùn tắc tại các cửa khẩu biên giới phía Bắc
Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 56/TB-VPCP ngày 28/2/2022 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành tại Hội nghị trực tuyến về tình hình xử lý hàng hóa ùn tắc tại các cửa khẩu biên giới phía Bắc.
Để thúc đẩy sản xuất, lưu thông, tiêu thụ và xuất khẩu nông sản trong bối cảnh phòng, chống dịch bệnh COVID-19 tại các tỉnh phía Bắc, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã sớm có văn bản chỉ đạo các bộ, ngành, cơ quan, địa phương từ tháng 9 năm 2021 (Chỉ thị 26/CT-TTg ngày 21/9/2021). Phó Thủ tướng đã nhiều lần chủ trì họp với các Bộ, ngành, địa phương và đã ban hành các kết luận để chỉ đạo tháo gỡ khó khăn trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua các tỉnh biên giới phía Bắc (Thông báo 350/TB-VPCP ngày 27/12/2021, Thông báo số 08/TB-VPCP ngày 10/1/2022).
Triển khai thực hiện chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ tại các văn bản nêu trên, các Bộ, ngành, địa phương đã tích cực, chủ động và thực hiện nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao các nhiệm vụ, giải pháp đề ra và đã đạt được một số kết quả nhất định.
Tuy nhiên, tình trạng ùn tắc hàng hóa tại các cửa khẩu biên giới phía Bắc đã xuất hiện trở lại từ sau Tết Nguyên đán. Trong bối cảnh dịch COVID-19 còn diễn biến phức tạp, khó lường, hoạt động xuất nhập khẩu, thông quan hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới phía Bắc được dự báo còn nhiều khó khăn, thiếu ổn định, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống của người dân, sự lành mạnh của thị trường nông sản cả trước mắt và lâu dài.
Trong thời gian tới, Phó Thủ tướng yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đặt ra tại Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 21/9/2021, các Thông báo số 350/TB-VPCP ngày 27/12/2021, số 08/TB-VPCP ngày 10/1/2022; trước mắt triển khai thực hiện ngay các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Bộ Y tế chủ trì, cùng với Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng và các địa phương có cửa khẩu, trao đổi với các cơ quan hữu quan phía Trung Quốc thiết lập ngay mô hình "vùng xanh", "luồng xanh" kiểm soát dịch bệnh COVID-19 tại khu vực cửa khẩu (gồm cả lực lượng, trang thiết bị, phương thức hoạt động) như đề xuất của Bộ Công Thương tại Hội nghị nhằm giải quyết nhanh thủ tục kiểm dịch, kiểm soát lái xe và hàng hóa đảm bảo kết quả an toàn phòng chống dịch được cả hai nước công nhận nhằm đẩy nhanh quá trình thông quan hàng hóa tại các cửa khẩu.
Ủy ban nhân dân các tỉnh: Lạng Sơn, Lào Cai, Quảng Ninh, Cao Bằng thực hiện giao ban định kỳ hàng tuần với các cơ quan, bao gồm cả việc trao đổi, phối hợp với các địa phương phía Trung Quốc; trên cơ sở đó, kịp thời thông tin và có giải pháp phù hợp để điều phối hợp lý các phương tiện vận tải lên cửa khẩu, giải quyết kịp thời các thủ tục, hỗ trợ các tác nghiệp nhằm đẩy nhanh thông quan; tạo các điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất phục vụ sinh hoạt của các lực lượng và đội ngũ lái xe, người lao động khu vực cửa khẩu; xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng tình hình để trục lợi.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các địa phương có vùng trồng với sản lượng nông sản lớn chủ động nắm chắc tình hình, tiếp tục có các giải pháp định hướng sản xuất theo quy hoạch và kế hoạch nhằm đảm bảo các điều kiện xuất khẩu nông sản chính ngạch, cân đối cung cầu, ổn định thị trường.
Các Bộ, cơ quan, địa phương tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, chỉ đạo các doanh nghiệp, người sản xuất bảo đảm an toàn dịch bệnh trong quá trình sản xuất, đóng gói, vận chuyển, đáp ứng đầy đủ yêu cầu về tiêu chuẩn, quy chuẩn và chất lượng hàng hóa; đẩy mạnh tiêu dùng, chế biến nông sản phục vụ thị trường trong nước, sử dụng hiệu quả các phương tiện vận tải khác như đường sắt, đường biển để vận chuyển, xuất khẩu nông sản.
Các cơ quan thông tin truyền thông chủ động thông tin khách quan, chính xác, kịp thời nhằm phản ánh đúng bản chất tình hình, bảo vệ sản xuất trong nước, hỗ trợ người sản xuất, phục vụ điều hành hiệu quả, khoa học, góp phần sớm khắc phục tình trạng ùn tắc hàng hóa tại các cửa khẩu biên giới.
Bộ Công thương chủ trì cùng các Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hải quan xây dựng quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, chất lượng đối với hàng hóa xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới và cơ chế chính sách khuyến khích xuất khẩu chính ngạch đối với một số hàng hóa hiện đang ùn tắc tại các cửa khẩu biên giới; báo cáo, đề xuất Chính phủ xem xét trước ngày 30/3/2020.
Ban hành Khung đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái vừa ký Quyết định số 288/QĐ-TTg ngày 28/2/2022 ban hành Khung đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội để phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Khung đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội gồm 5 biểu:
Biểu số 1: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của cả nước;
Biểu số 2: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của các vùng kinh tế - xã hội;
Biểu số 3: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của các vùng kinh tế trọng điểm;
Biểu số 4: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
Biểu số 5: Một số chỉ tiêu liên quan đến tổng sản phẩm trên địa bàn của các vùng kinh tế - xã hội, vùng kinh tế trọng điểm, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Trong đó, một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của cả nước gồm: Tổng sản phẩm trong nước (GDP); các cân đối lớn của nền kinh tế như tích lũy, tiêu dùng, cán cân thanh toán quốc tế, ngân sách nhà nước, xuất, nhập khẩu hàng hóa; năng suất lao động, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP); đầu tư, xây dựng; doanh nghiệp, hợp tác xã; nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây dựng; thương mại và dịch vụ; chỉ số giá.
Chỉ tiêu xã hội chủ yếu của cả nước gồm: Dân số, lao động; giáo dục; khoa học công nghệ; y tế; mức sống dân cư.
Quyết định yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ báo cáo kết quả thực hiện các chỉ tiêu quy định trong Khung đánh giá, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 20/12 và cập nhật, bổ sung, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư vào ngày 20/3 năm tiếp theo; đồng thời, rà soát đề xuất điều chỉnh các chỉ tiêu kinh tế - xã hội theo ngành, lĩnh vực được phân công trong trường hợp cần thiết, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phân công các sở, ban, ngành trên địa bàn thực hiện các chỉ tiêu trong Khung đánh giá, định kỳ hàng năm, 5 năm đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; xây dựng Khung đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và 5 năm cấp huyện trên cơ sở Khung đánh giá và Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện…/.