Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội trả lời vấn đề bà Nguyệt hỏi như sau:
Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định, khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
Việc vợ chồng bà Trịnh Thị Nguyệt yêu cầu Tòa án chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là phù hợp với quy định của pháp luật.
Pháp luật về hôn nhân và gia đình hiện hành không có quy định việc ly thân. Về pháp lý, vợ chồng sống ly thân vẫn tồn tại quan hệ vợ chồng.
Theo khoản 1 Điều 31 Luật Hôn nhân và Gia đình, vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Khoản 1 Điều 680 Bộ luật Dân sự quy định, trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
Điểm a, khoản 1, khoản 2 Điều 676 Bộ luật Dân sự quy định, hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Trường hợp bà Trịnh Thị Nguyệt hỏi, căn cứ các quy định nêu trên, toàn bộ tài sản riêng của chồng bà Nguyệt để lại khi chết trở thành di sản thừa kế. Do khi chết chồng bà Nguyệt không để lại di chúc, những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất, trong đó có bà Nguyệt được hưởng phần di sản bằng nhau.
Luật sư Trần Văn Toàn
VPLS Khánh Hưng – Đoàn luật sư Hà Nội
* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.