In bài viết

Cơ giới hóa để giảm tổn thất sau thu hoạch

(Chinhphu.vn) – Tổn thất sau thu hoạch được ví như “kẻ ăn hại” trong gia đình nghèo khổ của người nông dân Việt. Để loại bỏ được “đối tượng” này, cần đẩy mạnh cơ giới hoá trong nông nghiệp.

16/01/2014 16:12
Cơ giới hoá trong trồng trọt sẽ được đẩy mạnh sau khi người dân mua sắm các loại máy hỗ trợ sản xuất Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Lạc hậu là lãng phí

Những năm gần đây sản xuất lúa ở ĐBSCL có những bước phát triển vượt bậc, với tổng diện tích gieo sạ 3,86 triệu ha, đạt sản lượng khoảng 21 triệu tấn/năm, góp phần quan trọng cho an ninh lương thực quốc gia, ổn định tình hình kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, tổn thất sau mỗi vụ thu hoạch còn cao, chiếm 13,7%. Trong đó, tổn thất cao nhất vẫn là khâu phơi sấy, chiếm 4,2%. Theo tính toán sơ bộ, nếu giá trung bình của mỗi kg lúa là 5.000 đồng thì tổn thất sau thu hoạch hằng năm có thể lên đến 13.700 tỷ đồng.

TS. Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, cho biết: “Vụ đông xuân bà con xuống giống đồng loạt để tránh sâu rầy nên đến khi lúa chín bà con cũng thu hoạch đồng loạt nên gặp nhiều khó khăn. Hiện tại, toàn vùng có 7.000 máy gặt đập liên hợp, số máy này chỉ giải quyết 40% diện tích lúa trong vùng, gây tổn thất không ít khi một diện tích lúa chín quá ngày, rụng đổ khi thu hoạch.

Nhưng tổn thất đáng ngại nhất là trong khâu phơi lúa. Hiện tại chỉ có 35% nông dân có thói quen sấy lúa, còn 65% nông dân tự phơi thủ công rất vất vả. Đây là điểm mà các nhà quản lý cần quan tâm để tránh “mất mùa” sau thu hoạch”.

Thực tế  hiện nay cả nước có gần 500.000 máy kéo các loại sử dụng trong nông nghiệp, với tổng công suất trên 5 triệu mã lực (CV), tăng 4 lần so với năm 2001; Máy tuốt lúa có 580.000 máy, trong đó máy gặt đập liên hợp chiếm 17.992 máy. Riêng vùng ĐBSCL có 11.424 chiếc máy gặt các loại, trong đó có 6.609 máy gặt  đập liên hợp, 4.815 chiếc máy rải hàng và có  9.608 máy sấy lúa.

Mức độ cơ giới hóa ở ĐBSCL trong khâu thu hoạch là 36% (so với cả nước); sấy lúa chủ động 39%, tuốt lúa 95%; xay xát lúa, gạo đạt 95%. Một số tỉnh ĐBSCL có mức độ cơ giới hóa cao, góp phần tăng năng suất, đảm bảo tính thời vụ, giảm thiểu tổn thất sau thu hoạch như: Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang… trong đó các khâu làm đất, thu hoạch lúa các tỉnh đạt 100% sử dụng máy cơ giới.

Nhìn nhận vấn đề này ông Đỗ Văn Nam, Cục Trưởng Cục Chế biến, Thương mại Nông lâm Thủy sản và Nghề  muối (Bộ NNPTNT) cho biết: “Nếu so sánh việc trang bị cơ giới hóa cho toàn ngành Nông nghiệp Việt Nam với các nước bạn thì còn thấp, phát triển chưa đồng bộ và toàn diện. Cụ thể, mức độ trang bị động lực của ngành Nông nghiệp nước ta chỉ 1,3 CV/ha canh tác, nhưng Thái Lan đến 4 CV/ha, Hàn Quốc 4,2 CV/ha, Trung Quốc là 6,06 CV/ha”.

Ngoài ra ông Nam cũng cho biết, nguyên nhân dẫn đến mức độ trang bị động lực trong ngành Nông nghiệp thấp, khó khăn là do đất đai phục vụ nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ; trình độ sản xuất công nghiệp, cơ khí chế tạo máy nước ta còn nhiều hạn chế; thu nhập của nông dân từ ngành Nông nghiệp thấp nên việc tích lũy đầu tư máy móc của nông dân là việc hết sức khó khăn.

Khởi sắc đầu tư cơ giới hoá

Cơ giới hoá trong lâm nghiệp giúp gia tăng giá trị từ các loại gỗ ván, gỗ vụn. Ảnh VGP/Đỗ Hương

Hiện nay, các địa phương trong vùng ĐBSCL đang triển khai thí điểm mô hình cánh đồng mẫu lớn. Bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ như năng suất lúa tăng khoảng 0,5 tấn/ha, trong khi chi phí sản xuất lại giảm, đã góp phần làm tăng thu nhập đáng kể cho người trồng lúa. Bên cạnh những kết quả đạt được, mô hình cánh đồng mẫu lớn chắc chắn vẫn còn không ít những khó khăn, trở ngại.

Ông Bùi Ngọc Sương, Phó trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, đánh giá: Các địa phương đang tập trung đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, hướng đến nền nông nghiệp hiện đại. Nhưng ở nông thôn đang xuất hiện những thách thức mới, đó là thiếu  lao động và tổ chức sản xuất lúa hàng hóa với quy mô lớn gặp nhiều khó khăn. Tháo gỡ vấn đề này Chính phủ đã có chủ trương về việc hỗ trợ lãi suất cho nông dân mua sắm các máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp, giúp nông dân tăng năng suất, chất lượng và giảm giá thành sản phẩm.

Bộ NNPTNT cũng cho biết thêm, không chỉ trong lĩnh vực trồng trọt, trong năm 2013, các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản và hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đã phát huy hiệu quả tốt.

Theo đó, trong công tác giảm tổn thất sau thu hoạch, đến hết năm 2013, Bộ NNPTNT đã công bố cho 15 tổ chức, cá nhân sản xuất máy móc, thiết bị giảm tổn thất sau thu hoạch được hưởng chính sách hỗ trợ với số dư nợ cho vay gần 2.000 tỷ đồng; số lượng máy kéo sử dụng trong sản xuất tăng 1,3 lần so với 2006; máy gặt các loại tăng 4,3 lần; mức độ cơ giới hóa các khâu làm đất trồng lúa đạt 80%; thu hoạch lúa đạt 30% (vùng ĐBSCL đạt 58%)…

Ngoài các chính sách của Trung ương, nhiều địa phương đã có chính sách khuyến khích, hỗ trợ thêm như Thái Bình (hỗ trợ 50% đơn giá máy sản xuất trong nước và nước ngoài có công suất từ 25 CV trở lên cho máy làm đất đa năng, máy gặt  đập liên hợp có công suất từ 40 CV trở  lên); Nghệ An, Nam Định, Hà Nội, Long An, Tiền Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Sóc Trăng (hỗ  trợ 70-100% lãi suất vốn vay…).

Những con số trên phần nào thấy được những khởi sắc trong việc cơ giới hoá nông nghiệp. Người nông dân đã tiếp nhận được sự đồng hành trong chính sách, để từ đó có thể gây dựng các “đầu cơ nghiệp”, thoát dần cảnh “con trâu đi trước cái cày đi sau”, thoát được “kẻ ăn hại” tổn thất sau thu hoạch để tiến tới làm giàu với nghề nông.

Đỗ Hương