In bài viết

Có nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân?

(Chinhphu.vn) - Dưới góc độ thực tiễn, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân cũng là vấn đề cần cân nhắc kỹ lưỡng, đặc biệt là tính khả thi cũng như sự đồng bộ của hệ thống pháp luật trong việc xử lý trách nhiệm hình sự của pháp nhân.

23/07/2015 08:27

Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân mà đối tượng chủ yếu là các loại hình doanh nghiệp vốn đã được đề cập đến trong các lần xây dựng, sửa đổi Bộ luật Hình sự của nước ta.

Vấn đề này cũng đã được các nhà khoa học trong lĩnh vực hình sự và tố tụng hình sự đề cập đến trong các diễn đàn khoa học và các bài giảng trong các trường đại học, trung tâm nghiên cứu pháp luật.

Về mặt lập pháp, lần đầu tiên trong dự thảo Bộ luật Hình sự, vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân đã được đưa vào để lấy ý kiến của nhân dân và Quốc hội. Có thể nói, đây là một nỗ lực rất lớn của các nhà làm luật trong việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội phạm và hình phạt.

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân không chỉ là một chủ trương lớn mà còn cho thấy có sự thay đổi rất lớn trong tư duy lập pháp của chúng ta.

Trước đây, khi nói đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân, đa phần các nhà khoa học, các nhà quản lý đều cho rằng, đó là quan điểm không phù hợp. Vì, tội phạm vốn dĩ là hành vi nguy hiểm cho xã hội do cá nhân thực hiện, kể cả hành vi đó được thực hiện nhân danh một pháp nhân. Do đó, chỉ cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân là đủ mà không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.

Bên cạnh đó, nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự cũng cho phép cơ quan truy tố “truy” đến cùng trách nhiệm của cá nhân đối với việc thực hiện một tội phạm mà sự trừng phạt đối với pháp nhân hoàn toàn không cần thiết nữa. Do vậy, chế định truy cứu trách nhiệm đối với pháp nhân chưa bao giờ được thừa nhận.

Tuy nhiên, việc đưa vào dự thảo Bộ luật Hình sự một chương riêng về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân lần này cho thấy có sự đổi mới về tư duy lập pháp và những nguyên tắc cũ cũng đang chuyển hóa.

Song, đứng dưới góc độ thực tiễn xử lý trách nhiệm hình sự của pháp nhân, người viết cho rằng, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân cũng là vấn đề cần cân nhắc kỹ lưỡng, đặc biệt là tính khả thi cũng như sự đồng bộ của hệ thống pháp luật trong việc xử lý trách nhiệm hình sự của pháp nhân, cụ thể như sau:

Hình phạt đối với pháp nhân là tăng nặng trách nhiệm hình sự của cá nhân

Theo quy định của Chương XI, dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), tại Điều 75 nêu rõ, nguyên tắc xử lý trách nhiệm hình sự của pháp nhân là “Chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân; b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân; c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân” và việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.

Theo quy định này, nếu một cá nhân đại diện cho một pháp nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, như “buôn lậu” hay “đưa hối lộ” thì ngoài việc truy cứu trách nhiệm của cá nhân trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, pháp nhân có cá nhân vi phạm cũng phải chịu trách nhiệm hình sự.

Như vậy, thực tế thì trong trường hợp này, những người có hành vi vi phạm gồm: người thực hiện tội phạm, người chỉ đạo thực hiện tội phạm là đại diện của pháp nhân (đồng phạm) và pháp nhân (liên quan).

Đứng dưới góc độ cá thể hóa trách nhiệm hình sự, Nhà nước đã xử lý triệt để các cá nhân có hành vi phạm tội. Ngoài những cá nhân có hành vi vi phạm đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì pháp nhân mà những người phạm tội đại diện hoặc nhân danh để thực hiện tội phạm cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự bằng hình phạt là phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn (giống tù có thời hạn với cá nhân), đình chỉ vĩnh viễn (giống như tử hình).

Nhiều ý kiến cho rằng, việc áp dụng trách nhiệm hình phạt đối với pháp nhân như trên thực chất là một hình thức “tăng nặng trách nhiệm hình sự” đối với cá nhân có hành vi phạm tội.

Ý kiến trên không phải không có căn cứ, vì thực tế, có những pháp nhân chỉ có một người đại diện duy nhất (loại hình Công ty TNHH một thành viên), nếu chủ pháp nhân này thực hiện tội phạm nhân danh pháp nhân thì ngoài việc phải nhận án tù đối với cá nhân, pháp nhân mà người đó đại diện cũng bị phạt tiền, tước giấy phép hoạt động. Như vậy, đối với cá nhân này thì hình phạt đối với pháp nhân cũng giống như “hình phạt bổ sung”.

Tính khả thi của hình phạt

Hình phạt đối với pháp nhân được áp dụng là phạt tiền, tước giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, tước giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cấm kinh doanh trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn.

Nhưng có lẽ, các hình phạt trên chỉ thực sự áp dụng đối với các pháp nhân có tên tuổi và tài sản. Đối với các pháp nhân nhỏ, ít tài sản hoặc không có tài sản thì các hình phạt trên cũng chỉ có giá trị trên giấy.

Trở lại với vấn đề thực tế áp dụng hình phạt tiền đối với các đối tượng phạm tội về ma túy, trong nhiều năm qua, hàng nghìn bản án, thậm chí là nhiều hơn rất nhiều, đã phải thực hiện việc xóa nghĩa vụ nộp tiền án phí cho các bị án vì đơn giản, các bị án này đều đang thụ án phạt tù hoặc án tử hình, không thể nộp tiền phạt với tính chất là hình phạt bổ sung. Đây là một ví dụ khá rõ ràng về hiệu lực của một số hình phạt đối với cá nhân.

Đối với pháp nhân, hình phạt cũng sẽ trở nên không có tác dụng nếu tòa án áp dụng hình phạt tước giấy phép hoặc đình chỉ vĩnh viễn đối với pháp nhân khi mà pháp nhân đó thực tế cũng không thể tồn tại, không thể tiếp tục sản xuất, kinh doanh.

Trường hợp tòa áp dụng hình phạt tiền đối với pháp nhân mà pháp nhân bị phạt lại trắng tay thì dù tòa có phạt nhiều hay ít cũng không có ý nghĩa gì vì kết cục là pháp nhân đó thực tế đã không tồn tại, không tài sản và không tương lai. Do vậy, hình phạt đối với pháp nhân thực sự không khả thi.

Với những đặc điểm đặc trưng của các doanh nghiệp hiện nay là vừa và nhỏ, loại hình doanh nghiệp một chủ là phổ biến và việc quản lý tài sản đối với các doanh nghiệp chưa thực sự tốt thì việc xem xét phương án truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân cần cân nhắc kỹ hơn.

Đối với một tội phạm, việc xử lý cá nhân có hành vi vi phạm về cơ bản đã thực hiện việc truy cứu tận cùng đối với nguồn gốc vi phạm, thực hiện đầy đủ nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự.

Đối với pháp nhân, nên chăng xem xét nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính thay vì buộc tội pháp nhân.

Luật sư Lê Văn Đài

Đoàn Luật sư TP Hà Nội