Ảnh minh họa |
Theo đó, cơ sở giáo dục, cơ sở dạy nghề cung cấp danh sách học sinh, sinh viên có nhu cầu vay vốn đã được cơ sở giáo dục, cơ sở dạy nghề cấp Giấy xác nhận, cung cấp các thông tin về đóng học phí và hiện trạng học tập của học sinh, sinh viên thuộc đối tượng được vay vốn.
Đồng thời, cơ sở giáo dục, cơ sở dạy nghề cung cấp, cập nhật kế hoạch ra trường của các khóa học, cung cấp danh sách học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường để phục vụ cho việc cập nhật thông tin về quản lý vốn vay.
Trường hợp học sinh, sinh viên đang còn dư nợ đã được các doanh nghiệp, cơ quan nhận vào làm việc thì các cơ quan phối hợp cần cập nhật kịp thời các thông tin liên quan đến học sinh, sinh viên này để phục vụ công tác quản lý và tra cứu dữ liệu.
Hồ sơ điện tử quản lý tín dụng học sinh, sinh viên bao gồm các thông tin: Thông tin về học sinh, sinh viên (Họ và tên; Mã số/số thẻ sinh viên, lớp, khoa, khóa học, trường...); Thông tin về hộ gia đình (Họ và tên chủ hộ vay vốn, địa chỉ liên hệ); Thông tin liên quan đến khoản vay (Ngày vay, ngày đến hạn trả nợ, Ngân hàng Chính sách xã hội cấp huyện nơi cho vay, mức vay, số tiền đã vay, số tiền gốc đã trả, số tiền lãi đã trả, dư nợ hiện tại, trạng thái nợ). |
Sau khi lao động được tuyển dụng, nhà tuyển dụng gửi thông báo lên Trang thông tin điện tử “Vay vốn đi học” các thông tin về nhà tuyển dụng, danh sách những lao động của đơn vị mình và tình trạng nợ vốn vay tín dụng học sinh, sinh viên đối với số lao động này.
Nhà tuyển dụng hoặc người lao động khi trả nợ tiền vay cho Ngân hàng Chính sách xã hội, các thông tin về dư nợ của học sinh, sinh viên sẽ được ghi nhận vào phần mềm và sẽ được đồng bộ với cơ sở dữ liệu của ngân hàng Chính sách xã hội và thông tin trên Trang thông tin điện tử “Vay vốn đi học”.
Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5/6/2012
Thanh Trúc