Đồng thời, cử tri cũng đề nghị thực hiện tốt công tác bảo mật thông tin khách hàng không để các đối tượng lợi dụng lấy thông tin để thực hiện hành vi phạm tội.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời cử tri tỉnh Tuyên Quang như sau:
Việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán (TKTT) tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đã được quy định tại Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về thanh toán không dùng tiền mặt (đã được sửa đổi, bổ sung), Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 hướng dẫn việc mở và sử dụng TKTT tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (đã được sửa đổi, bổ sung), trong đó:
- Đối với quy trình mở TKTT, đã quy định chặt chẽ về hồ sơ, thủ tục mở TKTT, trong đó, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phải áp dụng đầy đủ các biện pháp nhận biết và xác minh thông tin khách hàng mở TKTT, bảo đảm tuân thủ quy định về phòng, chống rửa tiền; đồng thời, đã có quy định chặt chẽ về quy trình mở và sử dụng TKTT:
(i) Quy định rõ quyền và nghĩa vụ của chủ TKTT, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán;
(ii) Quy định về các hành vi bị cấm trong mở, sử dụng TKTT bao gồm mở hoặc duy trì tài khoản nặc danh, mạo danh, chủ TKTT không được cho thuê, cho mượn TKTT của mình và không được sử dụng TKTT để thực hiện cho các giao dịch nhằm mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo, gian lận hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Đối với việc mở tài khoản bằng phương thức điện tử (eKYC), ngoài việc tuân thủ các quy định chung về mở, sử dụng TKTT, tại Thông tư số 16/2020/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư số 23/2014/TT-NHNN còn bổ sung các quy định chặt chẽ về quy trình mở TKTT bằng phương thức điện tử, cụ thể:
Về đối tượng áp dụng: Chỉ áp dụng đối với khách hàng cá nhân là người Việt Nam, không áp dụng đối với khách hàng cá nhân là người nước ngoài và các đối tượng quy định tại Điểm b, c, d Khoản 1 Điều 11 Thông tư số 23/2014/TT-NHNN.
Về quy trình mở TKTT, phải đáp ứng các yêu cầu:
(i) Có giải pháp, công nghệ để thu thập, kiểm tra, đối chiếu, bảo đảm sự khớp đúng giữa thông tin nhận biết khách hàng, dữ liệu sinh trắc học của khách hàng với các thông tin, yếu tố sinh trắc học tương ứng trên giấy tờ tùy thân của khách hàng;
(ii) Xây dựng quy trình quản lý, kiểm soát, đánh giá rủi ro, trong đó có biện pháp ngăn chặn các hành vi mạo danh, can thiệp, chỉnh sửa, làm sai lệch việc xác minh thông tin nhận biết khách hàng trước, trong và sau khi mở TKTT cho khách hàng; biện pháp để kiểm tra, xác minh thông tin nhận biết khách hàng bảo đảm khách hàng thực hiện giao dịch trên TKTT được mở bằng phương thức điện tử là chủ TKTT đó.
Áp dụng hạn mức giao dịch (ghi Nợ) qua TKTT được mở bằng phương thức điện tử: Không vượt quá 100 triệu đồng/tháng/khách hàng (Khoản 3 Điều 14a).
Thực tế qua theo dõi, có khoảng 35 ngân hàng triển khai mở TKTT bằng phương thức điện tử, các ngân hàng đã tăng cường các giải pháp nhận biết, định danh khách hàng mở TKTT.
Ngân hàng Nhà nước đã tích cực phối hợp với Bộ Công an nghiên cứu, xây dựng phương án cho phép ngành Ngân hàng kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu Căn cước công dân, thẻ Căn cước công dân gắn chip để phục vụ xác minh thông tin nhận biết khách hàng.
Ngày 17/10/2022, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Công văn số 7262/NHNN-TT yêu cầu các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nghiên cứu ứng dụng dữ liệu về Căn cước công dân, định danh và xác thực điện tử trong hoạt động mở và sử dụng TKTT.
Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành các văn bản chỉ đạo toàn ngành trong việc tăng cường phòng, chống, ngăn ngừa hành vi gian lận liên quan mở và sử dụng TKTT và văn bản yêu cầu các ngân hàng tăng cường các biện pháp quản lý rủi ro, đặc biệt công tác hậu kiểm để kịp thời phát hiện các sai lệch thông tin định danh và dấu hiệu bất thường trong quá trình khách hàng mở và sử dụng TKTT bằng phương thức điện tử (eKYC).
Về công tác bảo mật thông tin khách hàng, đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động ngân hàng:
Điều 14 Luật Các tổ chức tín dụng quy định:
"2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
3. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi, các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng".
Điều 5 Nghị định số 117/2018/NĐ-CP ngày 11/9/2018 của Chính phủ về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài quy định:
"1. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài căn cứ quy định của pháp luật, Nghị định này để ban hành quy định nội bộ về giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin khách hàng và tổ chức thực hiện thống nhất trong tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
2. Quy định nội bộ về giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin khách hàng phải bao gồm tối thiểu các nội dung sau đây:
a) Quy trình, thủ tục tiếp nhận, xử lý và cung cấp thông tin khách hàng; quy trình, thủ tục lưu trữ, bảo vệ bí mật thông tin khách hàng;
b) Việc giám sát, kiểm tra và xử lý vi phạm quy định nội bộ về giữ bí mật, lưu trữ, cung cấp thông tin khách hàng;
c) Phân cấp thẩm quyền, quyền hạn, nghĩa vụ của các đơn vị, cá nhân trong việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin khách hàng".
NHNN cũng thường xuyên chỉ đạo toàn ngành về việc bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thanh toán: Ban hành văn bản chỉ đạo về bảo đảm an ninh an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng; tổ chức hội nghị về công tác bảo đảm an ninh, an toàn thông tin ngành ngân hàng và các văn bản thông báo, cảnh báo, phòng ngừa, phát hiện các hành vi, thủ đoạn gian lận trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán nói riêng.
Bên cạnh các giải pháp quyết liệt từ phía ngành Ngân hàng, khách hàng có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an toàn thông tin cá nhân và an toàn khi giao dịch ngân hàng điện tử.
Do đó, ngoài việc chỉ đạo các tổ chức tín dụng triển khai các giải pháp kỹ thuật bảo đảm an toàn, bảo mật, Ngân hàng Nhà nước cũng thực hiện và chỉ đạo các tổ chức tín dụng, thực hiện các chương trình truyền thông, tuyên truyền, cảnh báo người sử dụng về các rủi ro, các thủ đoạn gian lận trong hoạt động mở, sử dụng tài khoản thanh toán và thanh toán trực tuyến.
Chinhphu.vn