In bài viết

Đặc điểm dịch tễ bỏng ở trẻ em

Nhằm xác định đặc điểm dịch tễ học ở trẻ em bị bỏng điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai, qua đó rút ra những kinh nghiệm điều trị, dự phòng tai nạn bỏng cho những đối tượng dễ bị bỏng, hạn chế thấp nhất các biến chứng và di chứng do bỏng để lại, nhóm điều dưỡng Lê Thị Kiều Trinh, Thái Kim Lộc, Hà Thị Ngọc Bích, hiện đang công tác tại Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai đã tập trung nghiên cứu đề tài khoa học “Đặc điểm dịch tễ bỏng ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai từ tháng 07-2009 đến tháng 06-2010” dựa trên bệnh án và theo dõi điều trị của 180 bệnh nhân bị bỏng tại Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai.

01/11/2010 08:51
Đặc điểm dịch tễ bỏng Theo kết quả nghiên cứu đề tài về dịch tễ bỏng tại bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai của nhóm điều dưỡng trực tiếp điều trị cho bệnh nhân bỏng cho thấy rằng, có đến 81,7% tỷ lệ bị bỏng thường dưới 12 tháng đến 4 tuổi và phần lớn các trường hợp bị bỏng đều do trẻ tự gây nên, trong số 180 nạn nhân bị bỏng tới điều trị tại bệnh viện nhi đồng từ giữa năm 2009 đến 6-2010 thì có đến trên 60% là nạn nhân nam, và số lượng bệnh nhân thường trú trên địa bàn thành phố Biên Hòa chiếm gần 35%. Qua kết quả nghiên cứu cũng cho thấy trẻ dễ bị bỏng vào dịp hè và tết. “Điều đáng lưu ý là những bệnh nhân bị bỏng được đưa đến bệnh viện càng sớm thì thời gian điều trị tại bệnh viện càng được rút ngắn. Tuy nhiên, đa số các nạn nhân bị bỏng thường được cha mẹ và người thân tự chăm sóc và điều trị ở nhà, khi không thấy đỡ hoặc dấu hiệu nặng lên thì mới đưa đến bệnh viện, điều đáng nói là đa số các nạn nhân đều được xử lý sơ cấp cứu sai, điều đó dẫn đến nguy cơ cho các biến chứng và di chứng về sau” - Điều dưỡng Lê Thị kiều Trinh khẳng định. Bệnh nhân điều trị bỏng (ảnh Internet) Bỏng là tổn thương do tác dụng trực tiếp của các yếu tố trực vật lý (nhiệt, bức xạ, điện…) và hóa chất gây nên trên cơ thể. Da là một bộ phận thường bị tổn thương nhất khi bỏng. Theo các nghiên cứu tại Viện Bỏng Quốc gia Việt Nam hiện nay thì bỏng là một trong những tai nạn thương tích thường gặp hàng đầu ở trẻ em đến cấp cứu tại bệnh viện sau tai nạn sinh hoạt và tai nạn giao thông. Bỏng cũng là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ thương tật, giảm tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng. Nguyên nhân và cách dự phòng bị bỏng Điều dưỡng Lê Thị Kiều Trinh, tác giả đề tài nghiên cứu cho biết, qua điều tra nghiên cứu chúng tôi thống kê được, nguyên nhân trẻ bị bỏng chủ yếu là do tiếp xúc với nhiệt ướt (91,6%) ở trẻ từ dưới 12 tháng – 4 tuổi và đa số là do trẻ vô tình gây nên (trên 86%). Một số nguyên nhân khác dẫn đến trẻ bị bỏng như: tiếp xúc với pô xe máy, ngã vào lửa, nhóm lửa bằng xăng, cồn, dầu hôi… Trẻ có thể bị bỏng bất cứ ở đâu và lúc nào do đó để dự phòng bị tai nạn bỏng cho trẻ không chỉ là trách nhiệm của riêng gia đình mà cần thiết có sự quan tâm của thầy cô ở trường, thông tin đại chúng…Điều dưỡng Lê Thị Kiều Trinh cho rằng: “qua thống kê nguyên nhân ở trẻ bị bỏng điều trị tại bệnh viện, chúng tôi nhận thấy rằng, để dự phòng trẻ bị bỏng, gia đình cần thiết phải theo dõi và kèm sát các bé nhỏ đang bò và chập chững đi. Không nên mặc cho trẻ những quần áo nilon hay quần áo bị bó sát cơ thể vì như thế sẽ gây bốc cháy khi tiếp xúc với lửa và khó cởi ra khi không may bị cháy. Ngoài ra, không để trẻ tiếp xúc với lửa, nước sôi, thức ăn nóng, bếp đang đun, đèn dầu, đồ điện các loại. Cất kín các dụng cụ đánh lửa, cắt nguồn điện, xếp các vật liệu dễ cháy trong gia đình vào nơi an toàn không thuộc vào tầm với của trẻ, cần kiểm tra độ nóng của nước tắm cho trẻ, không để trẻ tự ý sử dụng vòi nước nóng. Nghiêm cấm không cho trẻ đến gần nơi đốt rác, cột điện, phích cắm điện. Điều quan trọng là bố mẹ cần thường xuyên nhắc nhở các cháu phòng tránh tai nạn bỏng”. Những nguyên nhân gây bỏng thường gặp Là những điều dưỡng hàng ngày chăm sóc cho trẻ bị bỏng điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai, Điều dưỡng Hà Thị Ngọc Bích bày tỏ, chúng tôi đã chứng kiến nỗi đau đớn hàng ngày của những trẻ nhỏ bị bỏng, chúng tôi nhận thấy sự cần thiết để có thể hạn chế mức thấp nhất những tai nạn bỏng. Với các trang thiết bị y tế hiện nay, chúng ta cần phải tổ chức chăm sóc bệnh nhân bị bỏng phù hợp với điều kiện y tế cũng như kinh tế xã hội của từng địa phương, tùng khu vực, kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc, thừa kế các nghiên cứu ứng dụng của khoa học, kỹ thuật để có biện pháp chăm sóc hiệu quả nhất cho trẻ bị bỏng và dự phòng các biến chứng và di chứng do bỏng để lại. Hà Giang