In bài viết

Đẩy mạnh nghiên cứu thuốc BVTV sinh học

(Chinhphu.vn) - Sản xuất thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) Việt Nam là một trong những ngành sản xuất còn non trẻ và chỉ phát triển mạnh trong thời gian gần đây, đặc biệt là sau khi Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật ra đời và có hiệu lực năm 2015.

19/11/2024 14:13
Đẩy mạnh nghiên cứu thuốc BVTV sinh học- Ảnh 1.

Bộ NN&PTNT khuyến khích liên kết nghiên cứu, phát triển thuốc BVTV sinh học giữa các doanh nghiệp với các viện nghiên cứu

Thúc đẩy thuốc BVTV sinh học

Việt Nam đang là một quốc gia có nhiều thế mạnh trong sản xuất thuốc BVTV như: vị trí địa lý vận chuyển sang các khu vực sản xuất nông nghiệp trong khu vực và quốc tế; số lượng tiêu thụ và sử dụng nội địa ổn định; có nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng tiếp cận, làm chủ kỹ thuật và khả năng đầu tư dây chuyền trang thiết bị tiên tiến; có các cơ sở sản xuất thuốc BVTV các tập đoàn lớn của thế giới…

Theo thống kê cuả cục BVTV, Bộ NN&PTNT, cả nước hiện có 96 cơ sở sản xuất thuốc BVTVvới công suất hơn 300.000 tấn/năm và sản xuất được 30 dạng thuốc. Đáng chú ý, theo báo cáo của Cục BVTV, các doanh nghiệp chưa chủ động sản xuất được các hoạt chất. Việt Nam hiện chỉ có 1 cơ sở có sản xuất hoạt chất thuốc BVTVhóa học, công suất khoảng 50 tấn/năm và chỉ dùng cho tiêu thụ nội địa, không xuất khẩu. Quy mô công suất hầu hết ở mức thấp; cơ sở sản xuất phân bố không đồng đều trong nước làm gia tăng chi phí vận chuyển; tỷ trọng sản xuất các dạng thuốc, dung môi yêu cầu kỹ thuật đơn giản; chưa có cơ sở sản xuất thuốc BVTV sinh học chuyên hoá và quy mô lớn.

Hiện nay, Bộ NN&PTNT định hướng phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV theo hướng ngày càng ứng dụng thuốc BVTV sinh học rộng rãi hơn. Tuy nhiên việc phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học hiện gặp một số khó khăn như chưa có các chính sách cụ thể để khuyến khích nghiên cứu, hỗ trợ vốn và đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV sinh học. Điều kiện sản xuất các thuốc BVTV sinh học có nguồn gốc từ thảo mộc chưa được ưu tiên cắt giảm, nên việc đẩy mạnh phát triển các thuốc sinh học nhóm này còn khó khăn.

Ngoài ra, người dân vẫn quen sử dụng thuốc BVTV hóa học do hiệu quả cao, tức thời, giá thành rẻ. Thuốc BVTV sinh học ít được lựa chọn do chi phí sử dụng cao, thời gian bảo quản ngắn, phổ tác động hẹp, chuyên tính, hiệu quả chậm hơn so với thuốc hóa học, không ổn định do bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại cảnh và điều kiện sử dụng.

Để phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học theo mục tiêu đề ra, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hoàng Trung đề nghị, Cục BVTV phối hợp với các viện trường, sở, chuyên gia tiếp tục rà soát, đề xuất xây dựng các chính sách cụ thể để khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học.

Bên cạnh đó khuyến khích liên kết nghiên cứu, phát triển thuốc sinh học giữa các doanh nghiệp với các viện, trường hoặc các doanh nghiệp khoa học công nghệ được thực hiện các dự án theo hình thức hợp tác công tư.

Ngoài ra đặt hàng, ưu tiên bố trí kinh phí cho các đề tài, dự án nghiên cứu phát triển và sản xuất thuốc BVTV sinh học. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về thuốc BVTV sinh học, tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm và năng lực của các nước phát triển và các tổ chức quốc tế như FAO, WHO…

Đồng thời chuyển đổi số, xây dựng, số hóa cơ sở dữ liệu về thuốc BVTV từ trung ương đến địa phương, hỗ trợ cán bộ địa phương, doanh nghiệp, cơ sở buôn bán.

Ứng dụng công nghệ để tối ưu hóa thuốc BVTV

Xu hướng chung về sản xuất thuốc BVTV hiện nay đó là một mặt tập trung vào việc tối ưu hoá cơ chế tác động của các sản phẩm hiện có trong đó ưu tiên giảm lượng dùng; mặt khác phát triển thuốc có cơ chế tác động mới, ít độc và thân thiện hơn với môi trường. Một số xu hướng nổi bật khác như tăng cường tập trung vào công nghệ phối chế (cụ thể là các loại thuốc sinh học, thuốc phun bằng thiết bị không người lái – drone và tích hợp vào hệ thống nông nghiệp chính xác); cải thiện cơ chế kháng.

Ông Duke Hipp, Giám đốc Đối ngoại và Hợp tác Chiến lược, CropLife Châu Á cho biết, để giới thiệu 1 hoạt chất thuốc BVTV mới ra thị trường, các thành viên của CropLife hiện nay sẽ cần đầu tư trung bình 301 triệu USD và mất 12,3 năm. Nếu chỉ tính về kinh phí, thì mức đầu tư hiện nay đã tăng 25 lần so với mức của 20 năm trước. Các chuyên gia cũng nhấn mạnh, thời gian và chi phí dành cho các bước đánh giá an toàn và đăng ký sẽ chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng thời gian và chi phí để giới thiệu một hoạt chất BVTV mới, điều này cho thấy các công ty ngày càng cần đáp ứng các tiêu chuẩn cao hơn về hiệu quả, tính an toàn và mức độ phù hợp mỗi khi cho ra đời một công nghệ BVTV mới.

Hiệp hội Ngành thuốc BVTV Trung Quốc (CCPIA) cho biết Trung Quốc hiện là quốc gia sản xuất và xuất khẩu thuốc hoá chất nông nghiệp hàng đầu thế giới với 1775 cơ sở sản xuất thuốc BVTV, 60% sản lượng phục vụ hoạt động xuất khẩu tới 188 quốc gia trên toàn thế giới. Trong những năm gần đây, ngành thuốc BVTV Trung Quốc đang tập trung vào 4 trọng tâm chính: chuyển đổi và tập trung hoá các khu vực sản xuất thuốc BVTV; áp dụng công nghệ sản xuất thông minh – số hoá; tích hợp sâu rộng hoạt động R&D theo hướng công nghiệp hoá; và nông nghiệp thông minh. Hoạt động nghiên cứu và phát triển BVTV của nước này đạt được nhiều thành tựu nổi bật.

Ông Zhao Yonghui, Trưởng phòng đăng ký của Cơ quan Quản lý hóa chất nông nghiệp Trung Quốc (ICAMA), cho biết năm 2023, tổng chi phí R&D của 60 công ty thuốc BVTV đã niêm yết đạt xấp xỉ 1,400 triệu USD, chiếm 2,5% giá trị doanh thu. Tính đến cuối tháng 7/2019, Trung Quốc đã tạo ra 37 hoạt chất thuốc BVTV và đăng ký chính thức. Hiện nay, các hoạt chất phát hiện ở Trung Quốc chủ yếu tập trung cho thị trường nội địa.

Theo các chuyên gia, nghiên cứu và phát triển thuốc BVTV sinh học cũng là một xu hướng đang lên và cho thấy tiềm năng ứng dụng mạnh mẽ trong thời gian tới. Những công ty thành viên của CropLife đã gia tăng chi phí đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) thuốc BVTV sinh học, từ 16 triệu đô lên 26 triệu đô, tăng 62,5% so với mức của nghiên cứu trước đó. Trong khi đó, thống kê tại Trung Quốc cho thấy số lượng đăng ký các sản phẩm thuốc BVTV đang gia tăng; số lượng các công ty sản xuất thuốc BVTV sinh học hiện chiếm 18.61% tổng số các công ty sản xuất thuốc BVTV tại thị trường này.

Đỗ Hương