Quan tâm và tạo điều kiện để đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên trong cuộc sống là một trong những chủ trương lớn của tỉnh Gia Lai. Trong những năm qua, việc phát triển, mở rộng diện tích cây cao-su không chỉ được xem là một trong những giải pháp nhằm phát huy tối đa, sử dụng hợp lý nguồn lực lao động nhằm khai thác các thế mạnh, tiềm năng hiện có mà còn tạo ra cơ hội để đồng bào dân tộc thiểu số vào làm công nhân, nhận khoán vườn cây, xóa đói, giảm nghèo, vươn lên ổn định cuộc sống.
Chủ trương đúng
Trên địa bàn tỉnh Gia Lai hiện có 77.221 ha cao-su, trong số này có khoảng 30 nghìn ha đã được đưa vào khai thác, sản lượng mủ đạt hơn 50 nghìn tấn/năm. Quán triệt chủ trương của tỉnh, các đơn vị kinh doanh cây cao-su trên địa bàn đã luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi và ưu tiên tuyển dụng lao động là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ vào làm công nhân và nhận chăm sóc bảo vệ vườn cây, nhằm giúp đồng bào xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống và tăng thu nhập. Cho đến nay, trong tổng số hơn 30 nghìn lao động đang làm việc tại các đơn vị sản xuất, kinh doanh cao-su trên địa bàn Gia Lai, có hơn 15 nghìn lao động là người dân tộc thiểu số tại chỗ, trong đó số đông là thanh niên.
Làm tốt việc tuyển dụng, đưa đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ vào làm công nhân và nhận khoán chăm sóc cao-su, trước hết phải kể đến các Công ty thuộc Binh đoàn 15 (Bộ Quốc phòng). Sau hơn 30 năm được giao nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, đến nay các đơn vị của Binh đoàn đã trồng được hơn 30 nghìn ha cao-su, gần 2.500 ha cà-phê. Ngoài ra, các đơn vị công ty, xí nghiệp của đơn vị còn tổ chức kết nghĩa, giúp đỡ toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội với 116 làng, bảy huyện biên giới thuộc các tỉnh Tây Nguyên, nhờ vậy đời sống của đồng bào không những ổn định phát triển, mà tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững. Không chỉ các đơn vị thuộc Binh đoàn 15, các Công ty trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp cao-su Việt Nam cũng làm tốt công tác này. Số công nhân là đồng bào người dân tộc thiểu số cũng được ưu tiên tuyển dụng và chiếm tỷ lệ khá cao: Công ty TNHH một thành viên cao-su Mang Yang số công nhân là người dân tộc thiểu số là 1.100 người, chiếm 35% trên tổng số CBCN; Công ty TNHH MTV cao-su Chư Prông, trong tổng số 2.500 CBCNV, đã có hơn 1.000 công nhân là người dân tộc thiểu số tại chỗ; Công ty TNHH MTV cao-su Chư Sê, có 1.129 công nhân trên tổng số 2.629 CBCNV, Công ty TNHH MTV cao-su Chư Pah có 2.360 công nhân trên tổng số 2.992 CBCNV.
Vượt lên chính mình
Tôi gặp chị Kpă Bem người dân tộc Gia Rai, là công nhân cạo mủ Đội 13, Nông trường Suối Mơ, thuộc Công ty TNHH MTV cao-su Chư Prông, khi chị vừa từ vườn cây trở về. Từ một công nhân tập sự nhưng nhờ chịu khó học hỏi, Kpă Bem đã vươn lên trở thành thợ cạo bậc cao, được công nhận là 'Bàn tay vàng' cấp công ty qua các kỳ thi cạo mủ. Với thành tích cạo vượt khoán hơn bảy tấn mủ trên diện tích cao-su nhận khoán là ba ha, chị là một trong hai công nhân người dân tộc thiểu số, cùng với 35 cán bộ, công nhân có nhiều thành tích được công ty cho đi tham quan hai nước Trung Quốc và Ma-lai-xi-a.
Ở xã Ia Dơk (huyện Đức Cơ) nói tới Rơ Mah M'rao, thì ai cũng biết, hay nói đúng hơn là họ biết ơn anh nhiều, vì nếu không có M'rao làm 'cầu nối' để dân làng đến với cây cao-su của Công ty 75 (Binh đoàn 15) thì bây giờ đồng bào chưa chắc có cuộc sống như ngày hôm nay. Với việc nhận khoán chăm sóc cao-su từ hai đến năm ha/hộ, 105 hộ đồng bào Gia Rai nơi đây đã có thu nhập ổn định bình quân năm - bảy triệu đồng/năm, đó là chưa kể, nhờ sự giúp đỡ của công ty, bà con còn biết trồng cao-su tiểu điền, phát triển cây lúa nước, trồng xen hoa màu và chăn nuôi để tăng thêm thu nhập... Tài sản của gia đình anh, sau 20 năm vào làm công nhân cao-su, tính đến nay có ba căn nhà xây kiên cố, hai xe máy, một xe công nông, một máy xay xát, một xe khách, một cửa hàng bán tạp hóa, phân bón phục vụ cả khu vực ở ngay bìa làng. Không giàu có như M'rao, nhưng nhiều thanh niên, nhờ vào làm công nhân cao-su và chịu khó học hỏi, gia đình có cuộc sống và thu nhập ổn định như: Kpui Tui, ở làng Nẻ, xã Ia Din (Đức Cơ), nhận khoán chăm sóc vườn cây và trồng hai ha cao-su tiểu điền, thu nhập hằng năm 50 triệu đồng; Kpă Klu, Rơ Châm Hức, Kpui Chung ở làng Hle và Klung (Chư Prông) công nhân đội 4, thuộc Công ty Bình Dương, hằng năm vượt sản lượng từ 10 đến 13 triệu đồng, chị Rơ Châm Hler, nông trường cao-su Ia Pếch (Ia Grai)... Có thể nói, những thế hệ công nhân mới như M'rao, Kpui Tui, Rơ Châm Hler... là những nhân tố tích cực, lực lượng nòng cốt ở các buôn làng Tây Nguyên hôm nay.
Không chỉ có lớp trẻ, hăng hái vào làm công nhân cao-su, mà còn có khá nhiều bà con các buôn làng được các đơn vị tạo điều kiện nhận khoán chăm sóc bảo vệ vườn cây, nhờ vậy mà cuộc sống cũng không ngừng được cải thiện. Có nhiều già làng, với uy tín của mình là chỗ dựa đối với bà con mà còn của các đơn vị khi vận động thanh niên và bà con vào làm cao-su. Già làng Rơ Mah KLum ở làng Mới, xã Ia Dơk (Đức Cơ) là người có công lớn trong việc đưa 30 hộ đồng bào Gia Rai của làng mình ra định cư ở vùng đất mới để có điều kiện ký hợp đồng nhận khoán chăm sóc cao-su cho Binh đoàn 15. Bây giờ ở làng ông không ai còn bị đói, nhiều gia đình không những có cuộc sống ổn định, xóa được nghèo mà còn vươn lên làm giàu. Bản thân ông, ngoài nhận khoán chăm sóc bốn ha cao-su, còn làm bảy ha cao-su tiểu điền, trồng 3.000 cây điều, 3.600 cây cà-phê, 70 trụ tiêu... thu nhập của gia đình ông bình quân đạt 70 triệu đồng/năm. Năm 2001, ông trở thành niềm tự hào của dân làng và của cộng đồng, khi được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.
Bài và ảnh: PHAN HÒA (ND)