Công ty Luật TNHH IPIC đề nghị cơ quan chức năng giải đáp, cách hiểu của Công ty có đúng không? Trong trường hợp đúng thì dịch vụ trên có phải xin giấy phép kinh doanh môi giới thương mại theo Nghị định 09/2018/NĐ-CP không?
Đối với điều kiện “Phù hợp với mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước trong cùng lĩnh vực hoạt động” tại Khoản 2, Điều 9 Nghị định 09/2018/NĐ-CP thì khái niệm này được hiểu như thế nào, lấy số liệu hay tiêu chuẩn nào để chứng minh phù hợp với mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước? Trong trường hợp nếu chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn nào vê việc này, Công ty Luật TNHH IPIC đề nghị xem xét bải bỏ điều kiện này để tạo tính minh bạch trong việc xem xét điều kiện kinh doanh đối với doanh nghiệp.
Về vấn đề này, Bộ Công Thương trả lời như sau:
Theo Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Việt Nam trong WTO, đối với Dịch vụ đại lý hoa hồng (CPC 621, 61111, 6113, 6121), Dịch vụ bán buôn (CPC 622, 61111, 6113, 6121), Dịch vụ bán lẻ (CPC 631 632, 61112, 6113, 6121), ta cam kết: Công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực phần phối sẽ được phép cung cấp dịch vụ đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam. Đồng thời, việc thành lập các cơ sở bán lẻ (ngoài cơ sở thứ nhất) sẽ được xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT).
Liên quan tới cách hiểu về dịch vụ đại lý hoa hồng, căn cứ theo danh mục các ngành/phân ngành được liệt kê tại tài liệu MTN.GNS/W/120 của WTO và nội dung cụ thể của các ngành/phân ngành nêu tại Hệ thống phân loại sản phẩm trung tâm tạm thời-PCPC của Liên hợp quốc (được tham chiếu trong quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam), dịch vụ đại lý hóa hồng (CPC621) được hiểu là bán hàng trên cơ sở phí hoặc hợp đồng, là dịch vụ bán buôn bởi đại lý hoa hồng, môi giới thương mại, người điểu khiển đấu giá và các doanh nghiệp bán buôn khác - những đối tượng mà buôn bán trên danh nghĩa của những người khác, đối với tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam.
Như vậy, theo định nghĩa này, một dịch vụ được coi là dịch vụ đại lý hoa hồng nếu thỏa mãn 3 điều kiện cơ bản như sau:
- Là dịch vụ bán buôn;
- Đối tượng thực hiện bán buôn trên cơ sở danh nghĩa của những người khác;
- Có thu phí hoặc thỏa thuận bằng hợp đồng
Tuy nhiên, danh mục các ngành/phân ngành được liệt kê trong WTO cũng như mô tả các ngành/phân ngành trong PCPC của Liên hợp quốc nêu trên không có phân loại hoặc mô tả cụ thể về dịch vụ “môi giới thương mại hàng hóa”.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005, Điều 150 định nghĩa: “Môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới” và thuộc nhóm dịch vụ trung gian thương mại.
Theo Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ngày 6/7/2018, môi giới mua bán hàng hóa có mã VSIC 46102 và được phân loại cùng nhóm “461-4610: đại lý, môi giới, đấu giá hàng hóa”. Theo phân loại tại Hệ thống này, môi giới hàng hóa cũng hoàn toàn độc lập và không thuộc dịch vụ đại lý.
Về kiến nghị của Công ty Luật TNHH IPIC, do chưa mô tả cụ thể hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nước ngoài dưới hình thức là “môi giới thương mại hàng hóa” nên Bộ Công Thương chưa có đủ cơ sở để khẳng định hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó có thuộc dịch vụ đại lý hoa hồng mà Việt Nam đã cam kết trong WTO hay không. Vì vậy, Bộ Công Thương đề nghị Công ty Luật TNHH IPIC cung cấp thêm thông tin chi tiết và xác thực về bản chất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để có đầy đủ cơ sở giải thích và hướng dẫn doanh nghiệp về vấn đề này.
Chinhphu.vn