Thưa các đồng chí Lãnh đạo, nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam,
Thưa các đồng chí lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam anh hùng, các Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động,
Thưa các vị đại biểu, khách quý,
Thưa đồng bào, đồng chí,
Trong không khí cả nước phấn khởi, ra sức thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, hôm nay, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và tỉnh Thừa Thiên Huế long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (01/12/1920-01/12/2020). Tất cả chúng ta có mặt tại đây để tưởng nhớ và tri ân đồng chí Lê Đức Anh, một chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà chính trị, quân sự tài ba, đức độ và nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta, người bạn thân thiết, tin cậy của bạn bè quốc tế. Đặc biệt, buổi lễ trọng thể này được tổ chức trên quê hương yêu dấu của đồng chí Lê Đức Anh - tỉnh Thừa Thiên-Huế - một vùng đất văn hiến, có bề dày lịch sử và truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng vẻ vang, một trong những trung tâm văn hóa đặc sắc của nước ta.
Thay mặt Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt chào mừng và gửi tới các đồng chí Lãnh đạo, nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồng chí lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam anh hùng, các Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động, các vị đại biểu, khách quý, cùng toàn thể đồng bào, đồng chí tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng và cả nước nói chung những tình cảm thân thiết và lời chúc tốt đẹp nhất.
Thưa đồng bào, đồng chí,
Đồng chí Lê Đức Anh sinh ngày 01/12/1920 tại làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên- Huế (quê quán tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế). Sinh ra trong một gia đình và quê hương giàu truyền thống yêu nước, cách mạng, trong cảnh nước mất, nhà tan đã sớm hun đúc trong Đồng chí lòng yêu nước, nhiệt huyết cách mạng, ý chí căm thù giặc sâu sắc. Năm 17 tuổi, Đồng chí tham gia phong trào dân chủ ở quê nhà, đấu tranh đòi tự do, dân chủ, giảm sưu cao, thuế nặng. Năm 18 tuổi, Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Những năm đầu hoạt động cách mạng, dưới ách thống trị hà khắc của thực dân, phong kiến, Đồng chí đã vượt lên gian khổ, không sợ hy sinh, hăng hái tổ chức vận động, gây dựng và phát triển phong trào trong các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh và các địa bàn lân cận. Tháng 8 năm 1945, đồng chí lãnh đạo công nhân cao su và đồng bào dân tộc ở Hớn Quản và Bù Đốp tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thành công.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đồng chí chủ yếu gắn bó với chiến trường miền Nam gian khổ, ác liệt và đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong Quân đội, đã kinh qua các chức vụ từ cấp đại đội, chi đội, trung đoàn, Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Tư lệnh Quân khu 9, Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân hướng Tây - Tây Nam tiến công vào Sài Gòn.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu 9. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia chiến đấu lật đổ chế độ diệt chủng, Đồng chí giữ các chức vụ: Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Phó Trưởng ban, rồi Trưởng ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia.
Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, Đồng chí đảm nhiệm chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, rồi Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngày 23/9/1992, Quốc hội khóa IX đã bầu đồng chí làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến tháng 12/1997.
Đồng chí được phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng năm 1974; được thăng quân hàm Thượng tướng năm 1980, Đại tướng năm 1984; là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khoá VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII, VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 12/1997 đến tháng 4/2001; Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII và IX.
Thưa đồng bào, đồng chí,
Sau những năm tháng hoạt động, xây dựng phong trào cách mạng từ Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, đến Đà Lạt, Thủ Dầu Một và tổ chức nhân dân tiến hành khởi nghĩa thành công trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Lê Đức Anh tham gia Quân đội và trực tiếp chỉ huy đơn vị vũ trang do chính Đồng chí tổ chức ra. Ngay trong những ngày đầu thực dân Pháp nổ súng ở Nam Bộ xâm lược nước ta lần thứ hai, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức nhiều trận đánh tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, bảo vệ căn cứ cách mạng; qua đó đã tôi rèn Đồng chí có được bản lĩnh, ý chí và những kinh nghiệm quý báu trong chỉ huy tác chiến.
Tháng 10/1948, Bộ Tư lệnh Nam Bộ được thành lập, gồm các Khu 7, Khu 8, Khu 9 và Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, đồng chí Lê Đức Anh được Xứ ủy Nam Kỳ điều về làm Tham mưu trưởng Khu 7; rồi Tham mưu trưởng Khu 8, Tham mưu trưởng Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Với cương vị Tham mưu trưởng, đồng chí Lê Đức Anh đã đề xuất với Bộ Tư lệnh tổ chức nhiều trận đánh, chiến dịch trên địa bàn miền Đông Nam Bộ giành thắng lợi, bằng những cách đánh linh hoạt, sáng tạo, đặc sắc, đậm nét nghệ thuật quân sự Việt Nam. Điển hình là Chiến dịch Bến Cát (tháng 1/1950) giành thắng lợi, đã góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường, từ chỗ ta bị động đối phó với các cuộc hành quân càn quét của địch, sang chủ động tổ chức những trận tiến công có quy mô chiến dịch.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sau những năm đầu công tác tại Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, được bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức cả về chính trị và quân sự, cuối năm 1963, đồng chí Lê Đức Anh được giao nhiệm vụ trở lại Nam Bộ - một chiến trường trọng điểm, ác liệt của cuộc kháng chiến, nơi Đồng chí đã gắn bó và ghi dấu những chiến công trong suốt những năm tháng đấu tranh giành chính quyền cách mạng và chín năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ chín, tháng 12 năm 1963, ngay những ngày đầu trở lại Nam Bộ, với cương vị Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều đề xuất quan trọng với Bộ Tư lệnh Miền và trực tiếp soạn thảo, triển khai kế hoạch xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, nhằm đáp ứng cho cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của quân và dân miền Nam.
Phát huy sở trường quân sự vốn có và những kinh nghiệm tổ chức tác chiến, trên cơ sở phân tích, đánh giá thấu đáo tình hình chiến trường, đồng chí Lê Đức Anh đã tham mưu và trực tiếp tham gia chỉ huy nhiều chiến dịch lớn giành thắng lợi. Trong đó, nổi bật là Đồng chí đã tham mưu tổ chức lực lượng thuộc Bộ Tư lệnh Miền thành các “huyện căn cứ”, “xã căn cứ”; trực tiếp chỉ huy chiến đấu tại chỗ, phối hợp với các đơn vị chủ lực đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti, cuộc hành quân quy mô lớn nhất của quân đội Mỹ và ngụy quân Sài Gòn trong cuộc phản công lần thứ hai, mùa khô năm 1966 - 1967; tham mưu và trực tiếp chỉ huy chiến đấu trên một hướng quan trọng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, góp phần làm nên những thắng lợi to lớn, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh.
Sau những thắng lợi của ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, địch ra sức củng cố lực lượng, tăng cường đàn áp, bình định lấn chiếm vùng giải phóng của ta, làm cho lực lượng và phong trào cách mạng ở miền Nam nói chung, địa bàn Quân khu 9 nói riêng giảm sút nghiêm trọng. Trong bối cảnh lịch sử ngặt nghèo ấy, đầu năm 1969, đồng chí Lê Đức Anh được giao đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân khu 9. Với những nỗ lực vượt bậc của Tư lệnh Lê Đức Anh và các đồng chí trong Khu ủy, Bộ Tư lệnh cùng ý chí kiên cường của quân và dân miền Tây Nam Bộ, lực lượng và phong trào cách mạng của Quân khu 9 đã nhanh chóng được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, chuyển từ bị động sang chủ động tiến công, đẩy lùi quân địch vào sát thị xã, thị trấn, bước đầu đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
Sau những thắng lợi liên tiếp của quân và dân ta trên khắp các chiến trường, nhất là Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” (tháng 12/1972), buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, rút hết quân viễn chinh về nước. Tuy nhiên, ngay sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, ngụy quyền Sài Gòn ngạo mạn tuyên bố: “Ngừng chiến, không ngừng bắn, không thi hành Hiệp định Paris”, “Trên hòa bình, dưới chiến tranh; ngoài hòa hợp, trong bình định”. Đồng thời, chúng ráo riết thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh bình định lấn chiếm. Dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, sự chỉ huy trực tiếp, quyết đoán của Tư lệnh Lê Đức Anh, quân và dân Quân khu 9 đã chiến đấu ngoan cường, bẻ gãy các cuộc hành quân lấn chiếm quy mô lớn, đánh bại mưu đồ phá hoại Hiệp định Paris của ngụy quyền Sài Gòn.
Đến năm 1974, cục diện chiến trường miền Nam có sự chuyển biến nhanh chóng, mở ra những thời cơ mới có tính chiến lược, đồng chí Lê Đức Anh được điều về làm Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, phụ trách lập kế hoạch tác chiến. Đồng chí đã cùng Bộ Chỉ huy Miền tích cực chỉ đạo, chỉ huy bộ đội huấn luyện và hoạt động tác chiến theo kế hoạch mới, nhất là tập huấn cách đánh công kiên, lấy chi khu Đồng Xoài làm đối tượng thực tế để luyện tập. Nhờ huấn luyện kỹ càng nên trong Chiến dịch Đường 14 - Phước Long, ta đã liên tiếp tiến công địch trong các chi khu Bù Đăng, Bù Đốp, Đồng Xoài giành thắng lợi, tiến tới giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long. Đây là “đòn trinh sát, thăm dò” có ý nghĩa chiến lược, cho thấy sự thua đau của ngụy quân Sài Gòn mà quân đội Mỹ không dám can thiệp trở lại, tạo thêm cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam.
Đầu năm 1975, nắm vững thời cơ chiến lược, Bộ Chính trị hạ quyết tâm mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam. Trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng - Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí Lê Đức Anh đảm nhiệm cương vị Phó Tư lệnh Chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân hướng Tây - Tây Nam tiến công vào Sài Gòn. Với tài thao lược và kinh nghiệm trận mạc được tích lũy trong suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ huy cánh quân lập những chiến công xuất sắc, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt của dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Không lâu sau ngày toàn thắng, trong khi nhân dân cả nước đang hưởng niềm vui thái bình, thì quân và dân trên các tỉnh biên giới Tây Nam lại phải đương đầu với cuộc chiến đấu mới, do bè lũ phản động Pol Pot gây ra. Với cương vị Tư lệnh Quân khu 9, rồi Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã tham gia chỉ huy lực lượng vũ trang chiến đấu bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đánh đổ tập đoàn phản động Pol Pot, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng.
Trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia, đồng chí Lê Đức Anh đã chỉ đạo, chỉ huy lực lượng Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả, cùng quân và dân Campuchia thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược của cách mạng, hồi sinh đất nước và dân tộc, xây dựng cuộc sống hòa bình và tươi đẹp.
Bước vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đồng chí Lê Đức Anh được Đảng, Nhà nước giao trọng trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, rồi Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảm nhiệm những trọng trách lớn, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương lớn, quyết sách quan trọng có tính đột phá để tái thiết đất nước, phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước chiến lược trong những năm đầu cả nước thực hiện đường lối đổi mới, với biết bao khó khăn, thử thách rất gay gắt.
Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Đảng uỷ Quân sự Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng đề xuất với Đảng, Nhà nước chỉ đạo thực hiện đổi mới xây dựng Quân đội nhân dân, trọng tâm là điều chỉnh tổ chức biên chế và thế bố trí chiến lược của Quân đội phù hợp với điều kiện đất nước và kế hoạch phòng thủ cơ bản trong thời kỳ mới; đồng thời đổi mới công cuộc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, phát huy sức mạnh của toàn dân trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đồng chí đã nhiều lần thị sát biên giới, biển đảo để đề xuất kế sách, chỉ đạo hoạch định, tổ chức xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, giải quyết vấn đề biên giới và bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Với tâm niệm “Nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển so với quốc gia, dân tộc khác cũng không nhẹ gì hơn nỗi nhục mất nước”, trên cương vị Chủ tịch nước, Đồng chí cùng tập thể Bộ Chính trị lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới, phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân, phát huy mọi động lực và tiềm năng để phát triển sản xuất, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ ổn định và phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, chỉ đạo thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, đưa Việt Nam từng bước hội nhập, nâng cao vị thế và uy tín trên trường quốc tế. Đó là những tiền đề rất quan trọng để đất nước ta tiếp tục giành những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong giai đoạn mới.
Là lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, Đồng chí luôn trăn trở trước những hoàn cảnh khó khăn của người dân. Đến với các địa phương, Đồng chí thường dành thời gian gặp gỡ, thăm hỏi, lắng nghe người dân và cán bộ cơ sở để nắm được thực chất cuộc sống của đồng bào. Đồng chí thường xuyên nhắc nhở lãnh đạo các địa phương: “Chúng ta làm cách mạng để giành chính quyền cho nhân dân, chính quyền của dân, do dân, vì dân”, từ đó, cấp ủy, chính quyền địa phương phải có giải pháp thiết thực để bảo đảm các điều kiện phát triển sản xuất, bảo đảm quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Đến thăm nhiều nơi, đồng chí Lê Đức Anh đã tận mắt chứng kiến và vô cùng thương cảm trước hoàn cảnh của những người vợ, người mẹ có chồng, có con đi chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc. Đồng chí đã đề xuất và được Bộ Chính trị đồng ý, ngày 10/9/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người tham gia hoạt động kháng chiến, người có công với cách mạng. Đây là một chính sách đúng đắn, mang đậm tính nhân văn sâu sắc của Đảng, Nhà nước ta.
Trải qua hơn 80 năm hoạt động cách mạng liên tục, phong phú và sôi nổi, đồng chí Lê Đức Anh là một tấm gương sáng ngời của người cộng sản kiên cường, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, luôn thể hiện tư tưởng cách mạng tiến công, dám nghĩ, dám nói, dám làm, nói đi đôi với làm, sẵn sàng chịu trách nhiệm. Được tôi luyện, vào sinh ra tử, trưởng thành qua đấu tranh cách mạng và chiến đấu trong kháng chiến, được giao nhiều trọng trách quan trọng của Đảng, Nhà nước và Quân đội, ở bất kỳ cương vị công tác nào, Đồng chí cũng luôn tận tâm, tận lực, hết lòng vì nước vì dân, có nhiều cống hiến to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như làm nhiệm vụ quốc tế cao cả.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của đồng chí Lê Đức Anh là cuộc đời và sự nghiệp của một nhà lãnh đạo quyết đoán, có tư duy nhạy bén, sắc sảo với tầm nhìn xa, trông rộng; một nhà lãnh đạo chiến lược, nhưng sâu sát, cụ thể; nghiêm khắc trong công việc, nhưng rất gần gũi, chân tình trong cuộc sống; quyết đoán trong hạ đạt mệnh lệnh, nhưng lại rất khiêm tốn, lắng nghe, ghi nhận ý kiến chính đáng của cán bộ, chiến sĩ.
Thưa đồng bào, đồng chí,
Nhìn lại cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Lê Đức Anh đã tâm huyết rút ra: “Luôn học tập không ngừng, nâng cao tri thức mọi mặt, đặc biệt là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thường xuyên rèn luyện bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước Nhân dân, trước cán bộ, chiến sĩ và trước cấp trên... Luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của người chiến sĩ cộng sản, có tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, luôn đặt lợi ích cách mạng lên trên hết”. Những đúc rút tâm huyết của đồng chí Lê Đức Anh cũng là những bài học rất sâu sắc cho mỗi chúng ta. Cuộc đời hoạt động của nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét và những di sản vô giá đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Lê Đức Anh, ôn lại cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và công lao to lớn của Đồng chí, chúng ta càng thêm tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh - đã luyện rèn nên người chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo có uy tín lớn; tự hào về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng - có người chỉ huy tài ba và đức độ; tự hào về quê hương Thừa Thiên Huế - nơi sinh ra người con ưu tú, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta.
Học tập và noi gương đồng chí Lê Đức Anh và các bậc tiền bối tiêu biểu, chúng ta nguyện mãi mãi đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn; kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của các bậc tiền bối và các thế hệ cha anh; ra sức xây dựng đất nước ngày càng phát triển giàu đẹp, văn minh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu; để cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhân buổi lễ trọng thể này, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đồng bào ta ở nước ngoài, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững, quyết tâm xây dựng thành công một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa - dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Xin chúc các vị đại biểu, khách quý, đồng bào và đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công.
Xin trân trọng cảm ơn./.