Dự án Hỗ trợ giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (PEDC) có tổng nguồn vốn là 247 triệu USD (hơn 4.000 tỷ VND), trong đó 140 triệu USD là vốn vay theo chương trình viện trợ phát triển ODA, còn lại là vốn không hoàn lại của 4 nước.
Dự án được triển khai tại 40 tỉnh, thành trong cả nước, trong đó có Quảng Ninh nhằm cải thiện cơ hội đến trường và nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; cải thiện cung cấp dịch vụ giáo dục tiểu học ở các huyện khó khăn, các trường khó khăn, các điểm trường lẻ; tăng cường khả năng tiếp cận với giáo dục của gia đình và cộng đồng; giảm số trẻ em có hoàn cảnh khó khăn không đi học hoặc hiện đang bỏ học, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em khuyết tật, trẻ em nghèo…; từ đó, tăng tỷ lệ trẻ em đi học, tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học và nâng cao chất lượng đầu ra của tiểu học, góp phần phổ cập giáo dục THCS. Chắp cánh ước mơ đến trường cho trẻ em.
Quảng Ninh có 4 huyện được Bộ GD-ĐT phê duyệt cấp kinh phí triển khai dự án, đó là: Ba Chẽ, Tiên Yên, Bình Liêu, Móng Cái. Ngay khi dự án được triển khai, Tỉnh đã ra quyết định thành lập Ban điều hành dự án và kiện toàn hàng năm. Ban đã tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành có liên quan phối hợp với ngành GD-ĐT các huyện chủ động triển khai có hiệu quả các nội dung của dự án. Bên cạnh đó, UBND tỉnh cũng phân định rõ trách nhiệm từng cấp trong việc lựa chọn điểm trường xây dựng; san lấp mặt bằng đảm bảo diện tích và độ bền địa chất, địa mạo...
Trong thời gian qua, Ban điều hành dự án tỉnh đã tổ chức các lớp tập huấn giáo dục cộng đồng và triển khai Quỹ hỗ trợ điểm trường. Nhờ đó, đã góp phần làm xoay chuyển nhận thức của cộng đồng về chăm lo giáo dục, khích lệ sự tham gia của cộng đồng và đóng góp đất canh tác để xây dựng và mở rộng diện tích khuôn viên cho các điểm trường.
Điển hình như ở xã Đồng Văn (Bình Liêu) có điểm trường đã vận động được nhân dân tự nguyện phá dỡ hàng nghìn mét vuông hoa màu trên ruộng đang canh tác để san gạt làm mặt bằng. Hay như ở xã Hải Lạng (Tiên Yên), Đồn Đạc (Ba Chẽ), nhiều hộ dân hiến hàng nghìn mét vuông đất để làm điểm trường... Theo thống kê của Ban điều hành dự án tỉnh, trong 130 điểm trường xây mới, có 55 điểm trường xây mới rộng, thoáng mát và thuận tiện đi lại hơn, 16 điểm trường được nhân dân tự nguyện hiến đất để xây dựng...
Toàn bộ dự án được cha mẹ học sinh trực tiếp tham gia lao động thủ công để san gạt mặt bằng, xây 1.295m tường rào, làm hơn 5 vạn hàng rào tre, trồng hàng nghìn cây xanh…Tất cả góp phần tạo ra một môi trường thân thiện, hấp dẫn với học sinh và cha mẹ học sinh, 100% điểm trường sau khi xây dựng và cải tạo đã đạt mức chất lượng tối thiểu tạo điều kiện cho thầy và trò nâng cao chất lượng dạy và học. Rút ngắn chênh lệch về chất lượng giáo dục.
Báo cáo của Sở GD-ĐT cho biết ở 43 xã, 48 trường và 254 điểm trường của 4 huyện được hưởng dự án, có 731/891 phòng học cần xây mới và cải tạo sửa chữa; các công trình vệ sinh, hệ thống nước sạch thiếu hoặc không đảm bảo vệ sinh môi trường; mới chỉ có 8/48 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I. Do chưa đạt mức chất lượng tối thiểu về cơ sở vật chất trường, sở dẫn đến chất lượng các cơ sở giáo dục miền núi, nhất là các điểm trường vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế. Theo số liệu thống kê của Ban điều hành dự án tỉnh, trong 6 năm triển khai dự án đã có 233/254 điểm trường được đầu tư; 48/48 trường của các huyện đều được đầu tư để xây mới hoặc cải tạo với tổng trị giá xây lắp và sửa chữa khoảng 115 tỷ đồng.
Thực hiện các nội dung của dự án, hàng năm, học sinh các huyện được dự án cấp trên 15.600 bộ sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo; trên 4.000 quyển vở; trên 5.500 bộ đồ dùng thực hành Toán - tiếng Việt lớp 1, 2 và các thiết bị dạy học khác như màn hình TV, đầu DVD, đài catsset...
Từ sự đầu tư về cơ sở vật chất các điểm trường và các hoạt động giáo dục thân thiện và tích cực đã thực sự góp phần làm thay đổi chất lượng đào tạo. So với năm 2005 bắt đầu thực hiện dự án, đến năm 2010 chất lượng giáo dục đã có tiến bộ rõ rệt: Tỷ lệ học sinh đến tuổi đi học đạt 99,5%, tăng 6,5%; học sinh bỏ học còn 0,2%, giảm 3,2%; học sinh đạt chuẩn kiến thức kỹ năng lên lớp đạt 98,86%, tăng 5,5%; học sinh 11 tuổi hoàn thành chương trình tiểu học đạt 99,3%, tăng 4,8%; 100% xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, tăng 13 xã.
Một điều đặc biệt của dự án là đào tạo và sử dụng có hiệu quả đội ngũ nhân viên hỗ trợ giáo viên trợ giảng trong các lớp học. Các nhân viên hỗ trợ giáo viên được tập huấn và hướng dẫn việc làm cụ thể làm cầu nối giữa giáo viên và học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh, tạo ra các nền nếp ban đầu cần thiết cho học sinh mới đến trường, giúp trẻ vượt qua khó khăn, chuyên cần học tập và tham gia các hoạt động của nhà trường. Trong những năm qua, đội ngũ nhân viên hỗ trợ giáo viên nhiệt tình trợ giảng đều là người địa phương, thông thạo tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số, trách nhiệm thiết thực góp phần làm cho trẻ em tự tin, giao tiếp nhanh hơn, nói tiếng Việt tốt hơn từ đó đạt được các yêu cầu về chuẩn kiến thức kỹ năng của lớp 1 làm chuyển biến rõ nét về chất lượng học tập và nâng cao chất lượng ở các lớp đầu cấp.
Có thể khẳng định, từ khi triển khai dự án, diện mạo của giáo dục tiểu học vùng khó đã thay đổi. Học sinh không còn phải học trong những lớp học tranh tre, dột nát mà đã được học tại những điểm trường kiên cố, đồng bộ thiết bị ,có điện, quạt máy… Chất lượng học tập của học sinh cũng được nâng lên cả về kiến thức và kỹ năng, góp phần khẳng định chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi bền vững của các huyện miền núi. Học sinh nói tiếng Việt tốt hơn, giáo tiếp tự tin hơn, các hoạt động tập thể nền nếp hơn và đặc biệt các kỹ năng sống tốt hơn. Và điều này góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền trong tỉnh./.