Ông Thế Anh hỏi, đối với các dự án như nêu trên thì trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt và quyết định đầu tư dự án cần phải áp dụng theo quy định hiện hành nào?
Ông có thể vận dụng trình tự, thủ tục dự án đầu tư theo Luật Công nghệ thông tin và Nghị định số 73/2019/NĐ-CP quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước được không?
Trường hợp pháp luật chưa có quy định cụ thể đối dự án không có cấu phần xây dựng như dự án về công nghệ thông tin, viễn thông nêu trên thì cần vận dụng theo Luật nào cho phù hợp nhất?
Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau:
Theo quy định tại Điều 1 Luật Đầu tư năm 2020, Luật này quy định về hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và hoạt động đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài.
Khoản 1 Điều 4 Luật Đầu tư quy định: Hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư và luật khác có liên quan.
Khoản 3 Điều 4 Luật Đầu tư quy định: Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Đầu tư và luật khác đã được ban hành trước ngày Luật Đầu tư có hiệu lực thi hành về trình, tự, thủ tục đầu tư kinh doanh, bảo đảm đầu tư thì thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư, trừ các trường hợp quy định tại các Điểm a, b, c, d, đ, e Khoản này.
Căn cứ các quy định nêu trên, trình tự, thủ tục đầu tư kinh doanh đối với các dự án đầu tư không sử dụng vốn nhà nước (kể cả dự án không có cấu phần xây dựng) thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư, trừ trường hợp quy định tại các Điểm a, b, c, d, đ, e Khoản 3 Điều 4 nêu trên.
Do vậy, trường hợp thực hiện dự án đầu tư kinh doanh, đề nghị thực hiện trình tự thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư.
Việc phê duyệt quyết định đầu tư, đề nghị thực hiện theo quy định tại Điều 24 và các quy định có liên quan tại Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành.