Bộ Tài chính đề xuất sửa quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý, sử dụng tài sản công
Bộ Tài chính cho biết, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 63/2019/NĐ-CP, Nghị định số 102/2021/NĐ-CP trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công đã phát sinh một số vấn đề sau:
Một số nội dung quy định tại Nghị định số 63/2019/NĐ-CP không còn phù hợp với Luật Đấu thầu năm 2024, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Dự trữ quốc gia, Luật Xử lý vi phạm hành chính số 56/2024/QH15; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Hải quan, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công số 90/2025/QH15, Nghị định số 24/2024/NĐ-CP ngày 27/02/2024, Nghị định số 186/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 như: Nội dung mua sắm tài sản công; giao tài sản công; chuyển giao tài sản công; khai thác tài sản công, tài sản kết cấu hạ tầng; đăng nhập và sử dụng số liệu về tài sản công; xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân,..
Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công: một số chức danh có thẩm quyền xử phạt không còn phù hợp theo quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Thanh tra 2025, Nghị định số 189/2025/NĐ-CP.
Bộ Tài chính cho biết, tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện nay đang quy định: (1) Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp (cấp tỉnh, cấp xã); (2) Thủ trưởng tổ chức thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực; Thủ trưởng tổ chức thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ được giao chức năng, nhiệm vụ kiểm tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ; (3) Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; (4) Thanh tra viên; Trưởng đoàn Thanh tra trong thời hạn thanh tra; (5) Trưởng đoàn kiểm tra của Bộ, cơ quan ngang Bộ trong thời hạn kiểm tra.
Bên cạnh đó, việc quy định "giá trị tài sản" làm căn cứ xác định mức phạt các hành vi vi phạm tại Nghị định số 63/2019/NĐ-CP là chưa rõ (theo nguyên giá hay giá trị còn lại hay giá trị đánh giá lại). Điều này có thể ảnh hưởng đến việc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các chức danh được quy định tại Nghị định số 63/2019/NĐ-CP.
Ngoài ra, tại Nghị định số 63/2019/NĐ-CP không quy định nguyên tắc, cách xác định số lợi bất hợp pháp có được do hành vi vi phạm hành chính gây ra để buộc đối tượng vi phạm nộp lại theo quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính. Hiện nay cũng chưa có căn cứ pháp lý để xác định số lợi bất hợp pháp do vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công.
Tại dự thảo, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định 63/2019/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 102/2021/NĐ-CP ngày 16/11/2021 của Chính phủ đối với lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công (Điều 1) như sau:
Sửa đổi, bổ sung hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả, nguyên tắc xác định số lợi bất hợp pháp (sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 4).
Sửa đổi, bổ sung hành vi vi phạm quy định về mua sắm tài sản công và việc xác định phần giá trị vượt so với tiêu chuẩn, định mức để làm căn cứ xử phạt (sửa đổi, bổ sung Điều 6, khoản 5 Điều 8).
Sửa đổi, bổ sung hành vi vi phạm về việc tặng cho tài sản công (Điều 10); xử lý tài sản công (Điều 15); tổ chức xử lý tài sản công (Điều 16).
Bổ sung: (i) Hành vi vi phạm hành chính đối với việc chậm thi hành quyết định giao tài sản công bằng hiện vật cho cơ quan, tổ chức, đơn vị (Bổ sung Điều 8a); (ii) Hành vi vi phạm hành chính đối với các quy định về việc khai thác tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị (Bổ sung Điều 13a).
Bổ sung: (i) Hành vi vi phạm hành chính đối với việc chuyển giao tài sản công về địa phương quản lý, xử lý (Bổ sung Điều 15a).
Sửa đổi các biện pháp khắc phục hậu quả tương ứng với từng hành vi vi phạm hành chính đảm bảo thống nhất với quy định tại khoản 3 Điều 4 (sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 4 Điều 8, điểm a khoản 2 Điều 9, khoản 3 Điều 12, khoản 4 Điều 13, điểm đ khoản 3 Điều 17, khoản 6 Điều 20, khoản 3 Điều 21; bổ sung điểm d vào sau điểm c khoản 3 Điều 11).
Sửa đổi, bổ sung Hành vi vi phạm hành chính đối với các quy định về không thực hiện bảo dưỡng, sửa chữa tài sản theo quy định của pháp luật (Điều 14).
Bổ sung: (i) Hành vi vi phạm quy định về xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân (sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2 Điều 22); (ii) Hành vi vi phạm trong việc giao tài sản kết cấu hạ tầng (bổ sung Điều 24a); (iii) Hành vi vi phạm trong việc trực tiếp tổ chức thực hiện khai thác tài sản kết cấu hạ tầng (bổ sung Điều 24b).
Sửa đổi khoản 1 Điều 29 về thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND cấp xã, Điều 30 về thẩm quyền xử phạt của các chức danh trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công (Cục trưởng Cục Quản lý công sản; Giám đốc sở; Trưởng đoàn kiểm tra của bộ, cơ quan ngang bộ; Trưởng đoàn kiểm tra của tổ chức thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; Thanh tra viên, Trưởng đoàn thanh tra trong thời hạn thanh tra).
Cụ thể, dự thảo đề xuất bổ sung quy định, phạt tiền từ 1 đến 5 triệu đồng đối với hành vi chậm thi hành quyết định giao tài sản công cho cơ quan, tổ chức, đơn vị nhận bàn giao quá thời hạn 30 ngày, kể từ ngày có Quyết định giao tài sản của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định (Điều 8a); hành vi khai thác tài sản công khi chưa được cơ quan, người có thẩm quyền ban hành Quyết định khai thác tài sản công theo quy định (Điều 13a); hành vi chậm thi hành quyết định chuyển giao tài sản công về địa phương quản lý, xử lý quá thời hạn 30 ngày, kể từ ngày có Quyết định chuyển giao của cơ quan, người có thẩm quyền hoặc kể từ ngày có văn bản giao nhiệm vụ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của pháp luật (Điều 15a); hành vi giao quản lý tài sản kết cấu hạ tầng khi không có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công; không lập hồ sơ quản lý, kế toán tài sản kết cấu hạ tầng (Điều 24a).
Phạt tiền từ 10 đến 20 triệu đồng đối với hành vi trực tiếp tổ chức thực hiện khai thác tài sản kết cấu hạ tầng khi không có Quyết định phê duyệt Đề án của cơ quan, người có thẩm quyền đối với trường hợp phải lập Đề án theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công…
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.