Gặp lại nguyên Đoàn trưởng đội đặc công rừng Sác năm xưa. Bài 1: Trung đoàn 10 rừng Sác anh hùng
Đến thăm Đại tá Lê Bá Ước, Nguyên Đoàn trưởng kiêm Chính ủy Trung đoàn 10 rừng Sác anh hùng giai đoạn từ năm 1968 – 1974 vào một chiều thứ 7 những ngày đầu tháng tư, tôi không khỏi bồi hồi bởi sợ vốn kiến thức ít ỏi của mình sẽ không thể nói hết, diễn đạt hết, đầy đủ về một con người từng gắn bó với những chiến công nay đã trở thành huyền thoại. Dù ở cái tuổi 81 nhưng ông vẫn còn khá minh mẫn. Nghe ý tôi muốn viết về những tháng ngày ở rừng Sác, Đại tá cười, “Cô muốn viết gì, chuyện về rừng Sác thì nhiều vô kể. Tôi nói cả ngày cũng chưa chắc đã hết. Những 10 năm ở đấy cơ mà”. Và sau một hồi làm quen, tôi mới bắt mạch được với câu chuyện và nghe ông kể về những tháng ngày “nếm mật nằm gai’ nơi rừng Sác cùng Trung đoàn 10.
Đại tá Lê Bá Ước. Nói về lịch sử của Đoàn 10 Đặc công rừng Sác, Đại tá cho biết, đặc khu quân sự rừng Sác – Đoàn 10 có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng. Rừng Sác có diện tích khoảng 750 km2 , trải dài từ Nhơn Trạch, Nhà Bè ra biển với nhiều nhánh sông như Soài Rạp, Lòng Tàu, Thị Vải… Nếu Sài Gòn là dạ dày thì sông Lòng Tàu là cổ họng, sông Soài rạp và sông Thị Vải là hai mạch chủ còn nếu Vũng Tàu, Cần Giờ, Đồng Hòa, Vàm Láng là bốn con mắt nhìn ra đại dương thì Rừng Sác là pháo đài giáp chiến. Chính vị trí quan trọng đó mà ngay từ thời Pháp, rừng Sác đã được bọn xâm lược hết sức lưu ý và tìm mọi cách triệt phá, bình định.
Khi đế quốc Mỹ leo thang trong chiến tranh ở miền Nam Việt Nam bằng chiến lược “chiến tranh cục bộ”, rừng Sác đã trở thành tâm điểm của Mỹ - Ngụy. Chúng thực hiện hàng loạt kế hoạch thâm độc, dùng lực lượng hỗn hợp tinh nhuệ cùng phương tiện hiện đại để càn quét hòng tiêu diệt mọi lực lượng cách mạng và thiết lập hệ thống đồn bốt, chi khu, tiểu khu quân sự, ấp chiến lược.
Ban chỉ huy rừng Sác họp bàn đánh cảng Nhà Bè. Để đối phó với những âm mưu của Mỹ - Ngụy, ngày 15 – 4 – 1966, Bộ chỉ huy Miền quyết định thành lập đặc khu quân sự rừng Sác, mang mật danh ngụy trang T10 sau đó đổi thành Đoàn 10. Đoàn 10 ban đầu có 4 nhiệm vụ chính là xây dựng vùng thành căn cứ làm bàn đạp cho các lực lượng vũ trang của ta đứng vững tại chỗ; đánh địch bằng mọi cách; kết hợp chặt chẽ với các tổ chức công tác đảng, dân chính tranh thủ xây dựng cơ cở, phát động mạnh mẽ chiến tranh du kích; bảo vệ an toàn hành lang vận chuyển hàng chiến lược của miền theo đường mòn Hồ Chí Minh. Sau này còn được bổ sung thêm hai nhiệm vụ tấn công vào kho tàng, bến cảng, cơ quan đầu não, sào huyệt cuối cùng của địch. Trong các nhiệm vụ đó, lấy nhiệm vụ đánh chìm tàu địch trên sông, tại cảng và đánh kho tàng lớn của địch làm chính.
Đại tá Lê Bá Ước, ngồi ngoài, bên phải tham gia chỉ huy trong một trận đánh. “Ngày ấy cũng như bao thanh niên Đồng Nai yêu nước, khi cách mạng tháng Tám 1945 nổ ra, tôi lên đường tham gia nhập ngũ”, Đại tá Lê Bá Ước nhớ lại. Đến năm 1954, khi thực dân Pháp thua trận đầu hàng, Đại tá tập kết ra Bắc và sau khi trở về, ông được phân công về hoạt động ở rừng Sác. Những tháng ngày bám trụ với rừng Sác tử chiến với kẻ thù là những tháng ngày muôn vàn khó khăn bởi không chỉ phải đối mặt với bom đạn của kẻ thù mà còn phải đối mặt với bao hiểm họa luôn rình rập từ thiên nhiên, nhất là những con cá sấu hung dữ. Ông rùng mình kể lại, trong số hơn 800 liệt sĩ hi sinh tại rừng Sác thì phải đến hơn 500 người không tìm được thấy xác do bị cuốn trôi hoặc cá sấu ăn thịt. Những tháng ngày bị địch bao vây tứ phía, giữa mênh mông chỉ toàn cây đước, cây bần thiếu lương thực, thiếu nước uống, ông và đồng đội phải nấu nước mặn để dùng, “có những ngày đói quá phải nhổ sắn của người dân ven rừng để ăn rồi tìm cách trả lại tiền sau cho bà con”, ông kể lại. Chính tình yêu thương, đùm bọc của những người dân sống ven rừng Sác, kể cả những người sống trong ấp chiến lược đã giúp Trung đoàn 10 bám trụ đối mặt với kẻ thù. Mặc dù cuộc sống vô vàn khó khăn ác liệt, luôn đối diện với cái chết nhưng chiến trường rừng Sác không lúc nào ngơi tiếng súng. Ra quân trận nào là hoàn thành xuất sắc trận đó, Đại tá tự hào kể lại.
Lê Nguyễn