Vấn đề phân loại tội phạm được sửa đổi quy định thành một điều riêng biệt tại Điều 9 của dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi). Nội dung phân loại tội phạm cũng được phân chia thành 4 loại như quy định tại luật hiện hành, gồm tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tuy nhiên cách diễn giải lại khác với Bộ luật Hình sự hiện hành.
Theo Dự thảo “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 3 năm.
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 3 năm đến 7 năm tù.
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 7 năm đến 15 năm tù.
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Nội dung phân loại tội phạm trong dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) có sự khác biệt với Khoản 3, Điều 8 Bộ luật Hình sự hiện hành ở chỗ luật hiện hành lấy mức thời gian quy định phạt tù tối đa làm căn cứ xác định cho mỗi loại tội phạm, còn Dự thảo quy định mỗi loại tội phạm được giới hạn bởi mức phạt tù tối thiểu đến mức phạt tù tối đa để làm căn cứ xác định.
Đối chiếu với các điều luật trong các tội phạm cụ thể ở phần hai (từ Chương XIII đến Chương XXVI) cho thấy có sự mâu thuẫn về mặt logic học, nhiều tội danh quy định mức phạt tù vượt ra ngoài giới hạn thời gian phạt tù được quy định trong Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4, Điều 9 Dự thảo.
Qua 3 ví dụ sau đây ta sẽ thấy rõ hơn:
- Tại Khoản 1 Điều 128 của Dự thảo quy định hình phạt cho tội “Vô ý làm chết người” là “Người nào vô ý làm chết người thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm”.
Quy định trên cho thấy, mức tối thiểu nằm trong giới hạn tội ít nghiêm trọng (đến 3 năm tù), mức tối đa nằm trong giới hạn tội nghiêm trọng (từ trên 3 năm đến 7 năm tù), vậy tội này nằm trong loại tội phạm nào?
- Khoản 1 Điều 118, quy định hình phạt cho tội “Phá rối an ninh”: “Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà kích động, lôi kéo, tụ tập nhiều người phá rối an ninh, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 109 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm”.
Nếu lấy mức tối đa để xác định là tội rất nghiêm trọng (đến 15 năm tù) thì đã thỏa mãn Khoản 3 Điều 9 như Dự thảo (tức là tội phạm rất nghiêm trọng), nhưng với mức thấp nhất là 5 năm tù, thấp hơn mức tối thiểu trên 7 năm lại nằm trong Khoản 2 Điều 9 (tức là tội phạm nghiêm trọng).
- Còn Khoản 1 Điều 108, quy định hình phạt cho tội “Phản bội Tổ quốc” là: “Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực lượng quốc phòng, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”.
Đây là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng vì có hình phạt cao nhất là tử hình. Tuy nhiên, mức thấp nhất ghi trong điều luật lại là 12 năm, thấp hơn mức tối thiểu trên 15 năm, quy định tại Khoản 4 Điều 9 trong Dự thảo (tức là tội này vừa là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhưng lại vừa là tội phạm rất nghiêm trọng).
Qua các ví dụ trên cho thấy, nội dung diễn giải về phân loại tội phạm tại Điều 9 không thống nhất với quy định hình phạt trong nhiều tội danh ở phần các tội phạm cụ thể, đây là mâu thuẫn trong xây dựng quy phạm pháp luật cần phải xem xét.
Luật sư Đoàn Công Thiện
Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang