![]() |
GS Văn Như Cương. |
- GS có cảm xúc như thế nào sau khi đọc được những thông tin này về GS Sử học Lê Văn Lan?
GS. Văn Như Cương: Tôi thấy bất ngờ và có chút sửng sốt khi đọc được thông tin này. Tôi không nghĩ một vị giáo sư có tài, nổi tiếng… và có nhiều đóng góp cho khoa học như anh Lan lại phải sống và nghiên cứu trong một không gian quá chật chội như vậy.
- Theo GS, đây có phải là một câu chuyện đặc biệt và hiếm gặp?
GS. Văn Như Cương: Nó có phần đặc biệt khi được gắn vào một vị GS nổi tiếng như GS Sử học Lê Văn Lan. Tuy nhiên, tôi không nghĩ đây là một câu chuyện gì hiếm gặp. Bởi đó là chuyện rất bình thường trong giới GS, PGS, TS chúng tôi.
Chính bản thân tôi cũng đã từng sống, học tập và nghiên cứu khoa học trong điều kiện còn “khổ” hơn như thế. Tôi cùng vợ và 3 đứa con gái đã từng chỉ có 11 mét vuông đất để sinh sống. Tôi cũng được biết, hiện nay rất nhiều GS, PGS, TS cũng đang phải sinh sống, học tập, nghiên cứu khoa học trong những không gian còn chật hẹp hơn như thế.
Minh chứng là bạn tôi, anh Xuân Tùng vừa được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lao động” còn đang khổ hơn nhiều. Tuy nhiên, họ vẫn vui vẻ, vẫn cống hiến và coi đó là chuyện hết sức bình thường.
- GS nhận định như thế nào về căn phòng 6 mét vuông của GS Sử học Lê Văn Lan? Đó có phải là không gian nghiên cứu phù hợp với một GS?
GS. Văn Như Cương: 6 mét vuông không hề rộng rãi thậm chí còn phải gọi là chật chội. Tuy nhiên, 6 mét vuông để làm không gian sinh sống và nghiên cứu khoa học với một GS không phải là chuyện không thể. Chẳng phải GS Sử học Lê Văn Lan đã cả đời sinh sống, nghiên cứu và cống hiến không ngừng nghỉ cho khoa học từ gian phòng chỉ 6 mét vuông đó sao.
Với điều kiện của GS. Sử học Lê Văn Lan, anh ấy hoàn toàn có thể chuyển đến một nơi rộng rãi, khang trang hơn để sinh sống và nghiên cứu. Tuy nhiên, mỗi người một sở thích, một quan điểm, một tiêu chuẩn khác nhau. Và tôi thiết nghĩ, GS Lê Văn Lan thích một không gian như vậy để nghiên cứu, cống hiến cho khoa học... và hài lòng với không gian sống đó của mình.
- Trên cương vị là một GS, GS có chia sẻ như thế nào về chế độ đại ngộ mà Nhà nước ta đã và đang dành tặng cho các GS, PGS, TS hiện nay?
GS. Văn Như Cương: Đòi hỏi thì vô cùng. Bản thân tôi là một GS đã về hưu, tôi thấy mình “đủ sống” với đồng lương GS về hưu của mình. Chính sách đãi ngộ của Nhà nước ta với hàm GS, PGS, TS hiện nay có thể chưa thật cao, chưa thật xứng đáng với nhiều trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, mặt bằng chung là tương đối, có thể chấp nhận được. Để giàu có được bằng đồng lương GS là chuyện không thể.
- Chính sách đãi ngộ đó của Nhà nước có đảm bảo cho một GS yên tâm nghiên cứu khoa học và cống hiến cho đất nước?
GS. Văn Như Cương: Thế nào mới là đủ? Thật khó để trả lời. Một GS chân chính, một nhà khoa học chân chính không bao giờ tính toán đến đồng lương GS mà hàng tháng, hàng năm Nhà nước trả cho anh ta là bao nhiêu. Cái mà các nhà khoa học chân chính quan tâm là họ đã nghiên cứu và cống hiện được cái gì cho khoa học. Giới GS chịu khổ quen rồi…
- Tại sao GS lại dùng câu: “Giới GS chịu khổ quen rồi?”
GS. Văn Như Cương: Không có gì khó hiểu. Bạn hãy dùng một phép tính để giải thích cho hiện tượng này. Hiện nay, chúng ta có quá nhiều các GS, các PGS lại chưa kể đến các TS, các Th.S. Ngân sách Nhà nước có hạn. Thêm vào đó là năng lực của từng người khác nhau. Không phải ai có hàm GS, PGS cũng có những nghiên cứu, cống hiến khoa học cho đất nước. Để đòi hỏi một chế độ đãi ngộ cao hơn, đồng bộ hơn cho tất cả là điều chưa thể có và cũng không được công bằng. Do đó, khi vàng thau lẫn lộn thì tất cả đều phải chịu một cơ chế đãi ngộ như nhau.
- Chúng ta nên có một chính sách đãi ngộ với hàm GS như thế nào cho hợp lý khi vàng thau đang lẫn lộn như hiện nay, thưa GS?
GS Văn Như Cương: Đó là xét theo năng lực. Ai có năng lực, có đóng góp, cống hiến nhiều thì cần một chế độ ưu tiên hơn. Chúng ta cần phải kích cầu để không lãng phí tài năng và chất xám của các GS.
- Cám ơn những chia sẻ của GS, chúc GS thật nhiều sức khỏe và tiếp tục có những cống hiến cho giáo dục!
(GS. Văn Như Cương: “Giáo sư Việt Nam chịu khổ quen rồi…” - Giáo dục Việt Nam ngày 7/2)