Các chi phí tư vấn đối với các công việc chuẩn bị để lập thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở (như chi phí tư vấn lập thiết kế bản vẽ thi công, chi phí thẩm tra thiết kế, thẩm tra dự toán) đã được phê duyệt trong tổng mức đầu tư dự án kèm theo hồ sơ báo cáo nghiên cứu khả thi dự án.
Căn cứ Khoản 6 Điều 13 Nghị định số 10/2021/NĐ-CP ngày 9/2/2021 của Chính phủ quy định về quản lý chi phí, do chi phí các công việc chuẩn bị để lập thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở đã được duyệt trong tổng mức đầu tư dự án, Ban Quản lý dự án (chủ đầu tư) xác định các chi phí tư vấn trên không thay đổi nên đã không quyết định phê duyệt lại các chi phí trên trước khi thực hiện lựa chọn nhà thầu (các gói tư vấn thực hiện theo hình thức chỉ định thầu rút gọn).
Theo đó, khi thực hiện thanh toán hoàn thành khối lượng công việc của các hợp đồng tư vấn các công việc chuẩn bị để lập thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở, đơn vị kiểm soát chi tại Kho bạc Nhà nước yêu cầu chủ đầu tư bổ sung "Văn bản phê duyệt dự toán của cấp có thẩm quyền đối với từng công việc, hạng mục công trình, công trình đối với trường hợp chỉ định thầu hoặc tự thực hiện và các công việc thực hiện không thông qua hợp đồng (trừ dự án chỉ phải lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật) theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11/11/2021 của Chính phủ quy định về quản lý, thanh toán quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công".
Ông Quang hỏi, Kho bạc Nhà nước yêu cầu cung cấp văn bản phê duyệt dự toán của cấp có thẩm quyền đối với chi phí các công việc chuẩn bị để lập thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở như vậy có phù hợp không?
Do các chi phí tư vấn trên đã có trong dự toán tổng mức đầu tư được duyệt tại quyết định phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi dự án. Vậy, chủ đầu tư có thể cung cấp văn bản phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi dự án thay thế cho văn bản Kho bạc Nhà nước yêu cầu để thanh toán hợp đồng các gói thầu trên được không?
Về vấn đề này, Bộ Tài chính trả lời như sau:
Tại Điểm b Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11/11/2021 về thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công quy định:
"1. Hồ sơ pháp lý của nhiệm vụ, dự án (gửi lần đầu khi giao dịch với cơ quan kiểm soát, thanh toán hoặc khi có phát sinh, điều chỉnh, bổ sung):
... b) Đối với nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư:
- Kế hoạch đầu tư công hàng năm được cấp có thẩm quyền giao;
- Quyết định hoặc văn bản giao nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư của cấp có thẩm quyền (trừ trường hợp nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư đã có trong Quyết định phê duyệt dự án hoặc Quyết định phê duyệt báo cáo kinh tế - kỹ thuật), các quyết định hoặc văn bản điều chỉnh (nếu có);
- Dự toán chi phí cho nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư hoặc dự toán từng hạng mục công việc thuộc nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Quyết định hoặc văn bản phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu của cấp có thẩm quyền theo quy định của Luật Đấu thầu;
- Văn bản của cấp có thẩm quyền cho phép tự thực hiện đối với trường hợp tự thực hiện và chưa có trong quyết định hoặc văn bản giao nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư của cấp có thẩm quyền;
- Hợp đồng, bảo đảm thực hiện hợp đồng (đối với trường hợp hợp đồng quy định hiệu lực của hợp đồng bắt đầu từ khi nhà thầu nộp bảo đảm thực hiện hợp đồng), phụ lục bổ sung hợp đồng trong trường hợp thay đổi các nội dung của hợp đồng (nếu có) hoặc văn bản giao việc hoặc hợp đồng giao khoán nội bộ (đối với trường hợp tự thực hiện)".
Như vậy, Kho bạc Nhà nước căn cứ các quy định nêu trên để kiểm soát hồ sơ pháp lý đối với nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư.
Vì vậy, đề nghị ông Quang căn cứ các quy định nêu trên để thực hiện.
Chinhphu.vn