Đây là nội dung được trao đổi tại Hội thảo "Phát triển thị trường tài chính xanh ở Việt Nam: Những rào cản, vấn đề cấp bách và giải pháp đột phá" do Viện Kinh tế Việt Nam tổ chức ngày 31/10 tại Hà Nội.
Tháng 10/2021, Lãnh đạo Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050". Song hành với Chiến lược Tăng trưởng xanh, Chính phủ đã ban hành nhiều chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan đến chuyển đổi xanh như: Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (BĐKH) giai đoạn đến năm 2050; Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh; Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững; Quy hoạch điện VIII...
Đồng thời, Việt Nam đã tham gia tích cực, có trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế trong chống biến đổi khí hậu như: Cam kết tại COP26 về phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050; Tuyên bố Chính trị thiết lập Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP)...
Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (năm 2022) cho thấy, để theo đuổi lộ trình phát triển kết hợp khả năng chống chịu và phát thải ròng bằng 0, Việt Nam cần khoản đầu tư tương đương 6,8% GDP mỗi năm, khoảng 368 tỷ USD cho đến năm 2040.
TS. Bùi Thị Quỳnh Thơ, Uỷ viên chuyên trách Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng: Để đạt mục tiêu, đòi hỏi phải có các cơ chế, chính sách và giải pháp huy động nguồn vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy phát triển thị trường tài chính xanh, khuyến khích dòng vốn tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực xanh.
Trên thế giới và khu vực, thị trường tín dụng xanh và trái phiếu xanh đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây. Riêng khu vực ASEAN + 3, theo Báo cáo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), thị trường trái phiếu bền vững đạt quy mô gần 800 tỷ USD năm 2023, gấp hơn 7 lần so với 2017.
Tại Việt Nam, từ năm 2017 đến nay, thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh đã có tốc độ phát triển hơn 20%/năm, cao hơn hẳn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế.
Theo Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2019 - 2023, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh. Tuy nhiên, thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh của Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và với nhu cầu huy động vốn cho chuyển đổi xanh. Tín dụng xanh mới chiếm khoảng 4,4% tổng dự nợ toàn nền kinh tế; con số 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh phát hành trong 5 năm qua vẫn còn rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn khoảng 20 tỷ USD trung bình mỗi năm để thực hiện các mục tiêu chuyển đổi xanh, dự án xanh.
TS Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nêu những lý do làm chậm xu thế chuyển đổi xanh do tác động của biến động địa chính trị, kinh tế. Đặc biệt việc quy hoạch, xây dựng khung pháp lý, quy định đối với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn nói chung và thị trường tài chính nói riêng, nhất là ở Việt Nam mới ở bước đầu...
Phát triển thị trường thêm thách thức khi việc định giá tài chính xanh gặp khó khăn do thiếu tiêu chuẩn hóa. Các định chế cho vay, phát hành cũng gặp khó khi khái niệm, quy định chưa chặt chẽ về trái phiếu xanh có thể bị lạm dụng thành trái phiếu xanh dởm, rửa xanh...
Nêu các giải pháp gỡ nút thắt, TS Lê Xuân Sang đề xuất, cần xây dựng hữu hiệu, thông tin thị trường, dữ liệu, danh sách trái phiếu/cổ phiếu xanh, với định nghĩa pháp lý rõ ràng; tiêu chí chặt chẽ trong huy động vốn, các khuyến khích hữu hiệu nhằm xây dựng lòng tin, đáp ứng lợi ích, kỳ vọng các nhóm nhà đầu tư. TS Sang cũng nhấn mạnh, để phát triển vững chắc và lành mạnh thị trường tài chính xanh, cần xác lập luật chơi cho thị trường, cùng với đó là khai thác hiệu quả thị trường tài chính truyền thống; tạo dựng niềm tin, kỷ luật thị trường trong đó có tính đến bối cảnh mới.
Có cùng quan điểm, ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia Kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, khuyến nghị: Cần xác định mục tiêu định lượng cụ thể phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam, tạo động lực phát triển tài chính xanh. Đồng thời chủ động tiếp cận các nguồn vốn quốc tế thông qua hợp tác song phương và các tổ chức tài chính quốc tế để thu hút nguồn vốn; đẩy nhanh tiến độ thực hiện xác nhận chứng chỉ carbon, hình thành thị trường carbon trong nước và kết nối với thị trường carbon quốc tế.
Riêng với thị trường tín dụng xanh, PGS.TS Phạm Thị Hoàng Anh, Phó Giám đốc Học Viện Ngân hàng chỉ ra: Đến nay, các tài liệu như Sổ tay đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đối với một số ngành vẫn chỉ mang tính tham khảo, khuyến khích chứ chưa mang tính bắt buộc.
Do đó, cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến tín dụng xanh theo hướng tăng cường tính bắt buộc để đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh. Đồng thời, cần đa dạng hóa các nguồn vốn cho tín dụng xanh tại Việt Nam, xem xét ưu tiên nguồn vốn cho tín dụng xanh, tín dụng cho phát triển bền vững thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ.
"Trong thiết kế chính sách thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh cần đa dạng hóa các hình thức khuyến khích, không chỉ phụ thuộc vào phương thức hỗ trợ tài chính (giảm lãi suất, gia hạn vay). Bên cạnh đó cần thực hiện đồng bộ các chính sách hỗ trợ khác như giáo dục và tuyên truyền nâng cao nhận thức; thay đổi chính sách thu hút đầu tư nước ngoài FDI", PGS.TS Phạm Thị Hoàng Anh khuyến nghị.
Anh Minh