Công ty TNHH MTV Tiến Minh Gia Lai được cấp Giấy chứng nhận đầu tư ngày 30/12/2016 cho dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất gạch và ngói không nung, thời gian xây dựng và đi vào hoạt động là 1 năm. Năm 2017, Công ty đã hoàn tất thủ tục pháp lý, hoàn thiện dự án, đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty có phát sinh thuế GTGT đầu vào khi đầu tư xây dựng dự án nên đầu năm 2018 Công ty đề nghị được hoàn thuế.
Số tiền thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư đề nghị hoàn là 2.024.616.277 đồng. Lãnh đạo Cục Thuế tỉnh Gia Lai ban hành quyết định hoàn thuế kiêm bù trừ NSNN cho Công ty TNHH MTV Tiến Minh Gia Lai số tiền: 1.218.949.750 đồng. Số tiền thuế GTGT chưa được hoàn còn lại chuyển sang kỳ sau.
Tuy nhiên sau đó, Công ty nhận được thông báo của Cục Thuế tỉnh Gia Lai về việc vẫn bảo lưu kết quả số tiền hoàn thuế GTGT đầu vào của doanh nghiệp, chờ hỏi Tổng cục Thuế trả lời vướng mắc hoàn thuế vì lý do thời gian đầu tư xây dựng của dự án chưa đủ 1 năm.
Công ty mới đi vào hoạt động, gặp nhiều khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm..., nên chưa có nguồn thu lợi nhuận. Qua Hệ thống Tiếp nhận, trả lời kiến nghị của doanh nghiệp, Công ty TNHH MTV Tiến Minh Gia Lai đề nghị cơ quan chức năng quan tâm xem xét xử lý giải quyết nhanh chóng giúp doanh nghiệp sớm nhận được số tiền hoàn thuế GTGT đầu vào theo quy định.
Về vấn đề này, Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính trả lời như sau:
Khoản 3, Điều 1 Luật số 106/2016/QH13 ngày 6/4/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Quản lý thuế quy định:
“Điều 1
Sửa đổi, bổ sung, một số Điều của Luật Thuế GTGT số 13/2008/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 31/2013/QH13:
3. Khoản 1 và Khoản 2, Điều 13 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết trong tháng hoặc trong quý thì được khấu trừ vào kỳ tiếp theo.
Trường hợp cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư có số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ và có số thuế còn lại từ ba trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT”.
Khoản 6, Điều 1 Nghị định số 100/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Quản lý thuế:
“6. Điều 10 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 10. Hoàn thuế GTGT
2. Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế đối với dự án đầu tư như sau:
a) Cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư đã đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, hoặc dự án tìm kiếm thăm dò và phát triển mỏ dầu khí đang trong giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt động, nếu thời gian đầu tư từ 1 năm trở lên thì được hoàn thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho đầu tư theo từng năm, trừ trường hợp quy định tại Điểm c khoản này. Trường hợp, nếu số thuế GTGT lũy kế của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT.
Trường hợp dự án đầu tư của cơ sở kinh doanh đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, kiểm toán thì cơ quan thuế có thể sử dụng kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để quyết định việc hoàn thuế GTGT và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình”.
Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư có số thuế GTGT luỹ kế của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT (kể cả thời gian đầu tư chưa đến 1 năm).