In bài viết

Học giả Đỗ Đức Dục - Bản hòa ca trí tuệ, tình yêu và khát vọng cống hiến

(Chinhphu.vn) - Cuộc đời học giả Đỗ Đức Dục là một bản hòa ca của trí tuệ, tình yêu và khát vọng cống hiến. Ông đã sống một cuộc đời trọn vẹn, phụng sự không mệt mỏi cho sự nghiệp cách mạng, cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cho nền học thuật nước nhà và vun đắp một gia đình hạnh phúc.

10/08/2025 13:32
Học giả Đỗ Đức Dục - Bản hòa ca trí tuệ, tình yêu và khát vọng cống hiến- Ảnh 1.

Thứ trưởng Bộ Văn hóa Đỗ Đức Dục tại Lễ kỷ niệm Quốc khánh Tiệp Khắc tại Nhà hát Lớn. Ảnh tư liệu

Học giả Đỗ Đức Dục để lại những dấu ấn sâu đậm trong các lĩnh vực báo chí, luật học, giáo dục, văn học, văn hóa…, trong trái tim của những người thân yêu, bạn bè, đồng nghiệp và các thế hệ học trò. Cuộc đời và nhân cách của ông là nguồn cảm hứng, nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm với đất nước, với khoa học và với chính những người thân yêu trong gia đình mình.

"Chọn đường" - từ Cử nhân Luật đến người trí thức yêu nước

Sinh năm 1915, tại làng Xuân Tảo, phủ Hoài Đức, Hà Đông (sau là Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội), Đỗ Đức Dục là con cháu của dòng họ Đỗ có truyền thống hiếu học lâu đời. Dù xuất thân trong gia đình nhà Nho không mấy khá giả nhưng nhờ tư chất thông minh và đặc biệt là sự cưu mang, dìu dắt của người chú ruột, Bác sĩ Đỗ Uông - một trí thức y khoa đáng kính, từng là Giám đốc Nhà thương Cống Vọng (nay là Bệnh viện Bạch Mai) - Đỗ Đức Dục được học hành đến nơi đến chốn. Tấm gương về sự khẳng khái, chí khí, tinh thần liêm khiết và lòng yêu nước thương dân của người chú thuở ban đầu đã sớm gieo vào lòng chàng trai trẻ những hạt mầm lý tưởng.

Năm 23 tuổi, ông xuất sắc tốt nghiệp Cử nhân Luật khoa Đại học Đông Dương. Với tấm bằng danh giá này, lẽ thường tình, ông có thể dễ dàng bước vào con đường quan lộ hay trở thành một công chức cao cấp như kỳ vọng của gia đình và xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, chàng cử nhân trẻ đã sớm có một "chí hướng" khác. Ông không màng danh vọng, không ham giàu sang mà nung nấu một khát vọng lớn lao hơn: "làm chính trị" - không phải theo nghĩa quyền lực thông thường, mà là dấn thân phụng sự đất nước bằng con đường của một người trí thức yêu nước. Con đường ông chọn không phải là con đường dễ dàng nhưng đó là con đường của một trái tim trí thức luôn thổn thức cùng vận mệnh dân tộc.

Người thợ xây nền móng cho báo chí cách mạng

Ông nhận thức sâu sắc rằng, trong bối cảnh đất nước còn nô lệ, ngòi bút chính là vũ khí sắc bén. Ông tâm niệm: "Viết báo, làm báo mới thật sự là phương tiện hiệu quả để hoạt động chính trị". Niềm đam mê viết lách vốn đã nhen nhóm từ những tờ báo tường thời học sinh nay được thổi bùng lên thành lý tưởng phụng sự. Ông chọn báo chí làm một trong những phương tiện để thực hiện khát vọng của mình. Ông tham gia viết cho các báo, và đặc biệt, đảm nhận vai trò Thư ký tòa soạn tạp chí Thanh Nghị từ năm 1942, một diễn đàn uy tín quy tụ nhiều trí thức tiến bộ, góp phần thức tỉnh tinh thần dân tộc.

Ông là một trong những người sáng lập Đoàn Báo chí Việt Nam vào tháng 12/1945, đặt nền móng cho tổ chức của những người làm báo cách mạng. Khi Hội Những người viết báo Việt Nam (tiền thân của Hội Nhà báo Việt Nam) được thành lập tại ATK Định Hóa, Thái Nguyên vào tháng 4/1950, ông đã được tín nhiệm bầu làm Phó Chủ tịch, cùng với nhà báo Hoàng Tùng, bên cạnh Chủ tịch Xuân Thủy.

Ông cũng là linh hồn của tờ báo Độc Lập, một tờ báo có vai trò quan trọng trong việc tập hợp lực lượng trí thức, cổ vũ tinh thần đoàn kết toàn dân trong kháng chiến. Ngòi bút chính luận sắc bén của ông dưới các bút danh Trọng Đức, Nhị Hà, Tảo Hoài đã góp phần định hướng dư luận, đấu tranh trên mặt trận tư tưởng.

Đặc biệt, không thể không nhắc đến dấu ấn đậm nét của Đỗ Đức Dục tại Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng. Trong hoàn cảnh kháng chiến đầy khó khăn, việc đào tạo một đội ngũ cán bộ báo chí cách mạng là yêu cầu cấp thiết. Ông đã đảm nhận trọng trách Giám đốc, đồng thời trực tiếp tham gia giảng dạy tại ngôi trường đặc biệt này mang tên nhà chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng, nơi đào tạo những cây bút xuất sắc, những nhà báo trung kiên cho cách mạng. Những đóng góp của ông trong việc xây dựng nền móng, đào tạo đội ngũ cho báo chí cách mạng Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh đầy gian khổ, thiếu thốn là vô cùng quý báu và đáng trân trọng.

Một luật gia với dấu ấn trên bản Hiến pháp 1946

Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đỗ Đức Dục hòa mình vào công cuộc xây dựng đất nước mới với tất cả nhiệt huyết và tài năng. Ông trúng cử đại biểu Quốc hội Khóa I (tỉnh Hà Đông) và được cử làm Ủy viên Tiểu ban Dự thảo Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trong giai đoạn này, có sự đấu tranh tư tưởng gay gắt giữa hai xu hướng làm hiến pháp: dân chủ đại nghị (hai viện) và dân chủ tập trung (một viện). Đỗ Đức Dục nhận thấy rằng hầu hết trí thức Việt Nam thời đó đều chịu ảnh hưởng của xu hướng dân chủ tư sản, với mô hình cộng hòa đại nghị của Pháp hoặc cộng hòa tổng thống của Hoa Kỳ. Những người này thường thấm nhuần học thuyết phân quyền của Montesquieu và cảm thấy bỡ ngỡ với mô hình dân chủ nhân dân với nguyên lý tập quyền.

Tuy nhiên, với quan niệm làm chính trị phải có chính kiến, Đỗ Đức Dục đã đi theo chủ nghĩa "dân chủ mới" hay "dân chủ nhân dân". Ông cho rằng mọi quyền lực nên tập trung ở một Quốc hội đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân, miễn là họ yêu nước và tha thiết với nền độc lập, dân chủ mới. Ông kiên quyết bảo vệ nguyên lý tập quyền, chống lại phân quyền, vì tin rằng chỉ có một Quốc hội mạnh mới giữ được độc lập và chống ngoại xâm.

Chính vì vậy, Đỗ Đức Dục là người đã thuyết trình bản Dự thảo Hiến pháp 1946 trước Quốc hội Khóa I và đã thuyết phục được các đại biểu thông qua tại Kỳ họp thứ 2. Bản dự thảo này được ví như một bản "sơ thảo" ngắn gọn, phản ánh tình thế đấu tranh của nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ. Sau bài phát biểu của ông, nhà văn Đặng Thai Mai đã khen ngợi Đỗ Đức Dục là một nhà hùng biện lãng mạn, đầy chất thơ. Cuối cùng, xu hướng dân chủ tập trung chiến thắng và được ghi vào Hiến pháp: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân".

Với những đóng góp này, Đỗ Đức Dục đã thể hiện vai trò quan trọng của mình trong việc đặt nền móng pháp lý cho nước Việt Nam độc lập non trẻ.

Học giả uyên bác, nhà giáo mẫu mực

Song hành với sự nghiệp báo chí cách mạng và những đóng góp to lớn trong lĩnh vực pháp luật, Đỗ Đức Dục còn là một tên tuổi uy tín trong giới học thuật và giáo dục. Ông đứng lớp tại các trường trung học tư thục nổi tiếng như Gia Long ở Hà Nội và có thời gian dạy tại trường Quốc học Thuận An ở Vinh. Trên bục giảng, ông không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn khéo léo "gợi cho thanh niên học sinh tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc" qua môn Giáo dục Công dân hay những giờ dịch văn. Lòng yêu nước của ông còn thể hiện qua việc tham gia các hoạt động xã hội ý nghĩa như trong Hội Truyền bá Quốc ngữ.

Niềm đam mê với "nghề cao quý" - nghề giáo - chưa bao giờ nguôi trong ông. Sau những năm tháng đứng trên bục giảng các trường trung học, ông tiếp tục sự nghiệp trồng người ở bậc đại học và sau đại học. Ông đã giảng dạy văn học tại các trường đại học danh tiếng như Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, góp phần đào tạo nhiều thế hệ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ cho đất nước. Ông được biết đến là người thầy tận tâm, nghiêm khắc nhưng cũng rất mực yêu thương học trò, luôn khuyến khích tư duy độc lập và tinh thần nghiên cứu khoa học. Nhiều học trò của ông sau này đã trưởng thành, thành đạt và có những đóng góp quan trọng cho đất nước.

Sự kính trọng của học trò dành cho ông không chỉ bởi kiến thức uyên bác mà còn bởi nhân cách và phương pháp sư phạm đầy cuốn hút. Bà Đỗ Hồng Lạng, con gái ông Đỗ Đức Dục kể lại: Những lần học trò cũ, dù đã "ở tuổi xưa nay hiếm" đến thăm thầy vẫn giữ trọn lễ nghĩa, kính cẩn chào hỏi và thầy thì ân cần tiếp đón học trò, tay bắt mặt mừng. Trong sổ tang khi ông qua đời, nhiều học trò vẫn nhắc lại những bài giảng Giáo dục Công dân, những bài phân tích văn học thấm đẫm tính nhân văn của ông, những bài học làm người mà họ mang theo suốt cuộc đời.

Bên cạnh giảng dạy, ông còn là một nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học sắc sảo và một dịch giả tài năng. Ông dành nhiều thời gian nghiên cứu văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học Pháp. Công trình nghiên cứu về "Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học" là một trong những đóng góp học thuật tiêu biểu của ông. Ông cũng là tác giả của khoảng 1.000 bài viết trên nhiều lĩnh vực, thể hiện sự uyên bác và tầm hiểu biết rộng lớn. Ngay cả khi tuổi đã cao, ông vẫn miệt mài làm việc, nghiên cứu, coi đó là cách để "cho cái não tập thể dục", giữ gìn sự minh mẫn.

Năm 1956, với cương vị là Thứ trưởng Bộ Văn hóa, ông đã khởi xướng xây dựng mô hình "Nhà Văn hóa nông thôn" và trở thành một chủ trương lớn của Bộ. Ông đã lăn lộn đi cơ sở để triển khai thực hiện thành công chủ trương đúng đắn, phù hợp với đặc điểm của nông thôn Việt Nam. Cho đến nay, chủ trương đó vẫn còn nguyên giá trị.

Người cán bộ Mặt trận tâm huyết và những đóng góp to lớn

Con đường đưa ông đến với tổ chức Mặt trận một cách trực tiếp bắt đầu từ việc tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ. Chính tại đây, ông đã kết nối và trở thành thành viên tích cực của Đảng Dân chủ Việt Nam - một thành viên quan trọng của Mặt trận Việt Minh. Với uy tín và tài năng của mình, ông được giao trọng trách làm Chủ bút, rồi Chủ nhiệm tờ báo Độc Lập - cơ quan ngôn luận của Đảng Dân chủ. Qua ngòi bút của mình, ông đã góp phần tuyên truyền đường lối cách mạng, tập hợp và giác ngộ quần chúng, củng cố sức mạnh cho Việt Minh từ ngay trong lòng một tổ chức thành viên. Ông là đại biểu của Đảng Dân chủ tham dự Đại hội Quốc dân Tân Trào năm 1945.

Ngày 19/12/1946, toàn quốc kháng chiến, ông lên Việt Bắc và được Tổng bộ Việt Minh tin tưởng bầu làm Phó Bí thư. Ở cương vị này, ông đã cùng các lãnh đạo của Mặt trận tham gia chỉ đạo, tổ chức và vận động các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, đoàn thể thực hiện các nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc, góp phần quan trọng vào việc củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, biến Mặt trận Việt Minh thành một tổ chức vững mạnh, là cơ sở chính trị cho chính quyền cách mạng.

Năm 1949, với tư cách là Phó Bí thư Tổng bộ Việt Minh, ông được giao nhiệm vụ làm Giám đốc trường viết báo Huỳnh Thúc Kháng. Năm 1951, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt, ông tiếp tục được tín nhiệm trở thành Ủy viên Ủy ban toàn quốc Mặt trận Liên Việt, tiếp tục đóng góp trí tuệ và công sức cho sự nghiệp đoàn kết dân tộc.

Sau ngày đất nước thống nhất, với bề dày hoạt động và sự am hiểu sâu sắc về công tác Mặt trận, ông Đỗ Đức Dục được mời tham gia Tiểu ban biên soạn cuốn sách "Sơ lược lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam". Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc hệ thống hóa, phân tích và tái hiện lại những chặng đường lịch sử hào hùng của Mặt trận-một cuốn sách quan trọng đóng vai trò khai mở cho các công trình nghiên cứu lịch sử Mặt trận sau này.

Học giả Đỗ Đức Dục - Bản hòa ca trí tuệ, tình yêu và khát vọng cống hiến- Ảnh 2.

Gia đình học giả Đỗ Đức Dục tại An toàn khu. Ảnh tư liệu

Trái tim nồng ấm giữa mái nhà bình dị

Đằng sau hình ảnh một nhà cách mạng, một học giả nghiêm cẩn là một Đỗ Đức Dục rất đỗi đời thường, một người chồng hết mực thủy chung và một người cha bao dung, ấm áp. Tình yêu "sét đánh" giữa chàng trai Hà thành và cô gái Huế Ngô Thị Thu năm 1939 đã trở thành bản tình ca đẹp kéo dài hơn sáu thập kỷ. Họ đã cùng nhau vượt qua những thử thách ban đầu, những cách biệt về vùng miền, những định kiến xã hội để xây dựng một tổ ấm hạnh phúc.

Với chín người con, ông Đỗ Đức Dục là một người cha mẫu mực, luôn đặt gia đình ở vị trí trung tâm. Ông không chỉ lo toan về vật chất mà còn dành trọn vẹn tình yêu thương và sự quan tâm tinh tế cho từng người con. Ông tôn trọng lựa chọn của con cái, dù đôi khi không như ý mình mong muốn. Ngay cả trong những năm tháng cuối đời, ông vẫn lạc quan, kiên cường đối mặt với bệnh tật để vợ con yên tâm. Tình yêu thương và trách nhiệm với gia đình vẫn luôn thường trực trong ông. Những lời dặn dò ân cần, tâm huyết của ông dành cho vợ con khắc sâu trong tim những người ở lại về một người chồng, người cha đã sống hết mình với cuộc đời, với đất nước, với gia đình.

Di sản tình yêu và trí tuệ còn mãi

Cuộc đời học giả Đỗ Đức Dục (1915-1993) là một hành trình không ngừng nghỉ của sự cống hiến và yêu thương. Ông đã dùng trí tuệ, ngòi bút và trái tim nhiệt thành của mình để phụng sự Tổ quốc, đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, báo chí, giáo dục và khoa học nước nhà. Đồng thời, ông cũng đã làm tròn vai trò của một người chồng, người cha, xây dựng nên một gia đình trí thức mẫu mực, giàu tình yêu thương.

Những đóng góp to lớn của ông đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận bằng những phần thưởng cao quý: Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huy chương "Vì sự nghiệp giáo dục", Huy chương "Chiến sĩ Văn hóa", Huy chương "Vì sự nghiệp văn hóa quần chúng" và công trình nghiên cứu của ông cũng vinh dự được đề cử xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.

Tên tuổi của ông được lưu danh trên những con đường ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hạ Long (Quảng Ninh) như một sự tri ân và nhắc nhở về một trí tuệ lớn, một nhân cách lớn.

Di sản quý giá nhất mà học giả Đỗ Đức Dục để lại không chỉ nằm ở những công trình, những danh hiệu, mà chính ở tấm gương về một trí thức chân chính: luôn trăn trở với vận mệnh đất nước, không ngừng học hỏi và cống hiến, giữ vững khí tiết và trên hết, biết yêu thương, trân trọng những giá trị gia đình. Ông đã sống một cuộc đời ý nghĩa, một cuộc đời mà ở đó, lý tưởng cách mạng, đam mê học thuật và tình yêu gia đình hòa quyện, tạo nên một bản lĩnh và nhân cách đáng ngưỡng mộ, tạo nên những giá trị bền vững, vượt qua mọi thử thách của thời gian, thăng trầm của cuộc sống với niềm tin mãnh liệt: "Ngày mai trời lại sáng!".

Chu Văn Khánh