Tiểu thuyết mở đầu bằng câu chuyện trở về Vinh của Thúy. Các phần tiếp theo là dòng chảy cuộc đời của các nhân vật.
Xen kẽ vào đó là kỷ niệm, dư vị tuổi thanh xuân, mối tình Thúy-Lan mà như tác giả nói ở cuối tác phẩm:“Mối tình của hai người quả là lạ lùng. Chỉ một lời hẹn ước bâng quơ, chưa dám nói lên lời yêu, mà cứ đeo bám họ đằng đẵng cả đời, kể cả khi cách biệt nhau góc biển chân trời. Dù trên đường đời, họ đi ngược chiều nhau. Dù trong cuộc sống hằng ngày, họ là những con người hiện đại”. Một tình yêu có thật nhưng như là ảo vọng trong tâm thức của hai kẻ yêu nhau mà không sống cùng nhau để cho cả cuộc đời họ luôn sống trong tình yêu bất kham và bất an. Phải chăng như thế tình yêu mới “vĩnh hằng”.
Thúy - chàng trai lớn lên từ thành Vinh (Nghệ An) trong những ngày đất nước chiến tranh gian khổ, với mong muốn thoát ly và ra Hà Nội công tác được miêu tả là người hiền lành, ít nói, “mũ ni”.
Thúy được giới thiệu và vào học trong một lớp kế toán cấp tốc mở ở Hà Nội. Tại lớp học này, Thúy quen Hạnh – cô gái xinh nhất lớp và mang lòng cảm mến chàng trai không có gì nổi bật trong đám con trai trong lớp ngoài việc biết chơi đàn ghi ta.
Bằng tình yêu chân thành của Hạnh, Thúy đã có ngày siêu lòng. Nhưng sau khi lớp học kết thúc, Thúy không chọn ở lại làm việc ở Hà Nội theo sự chuẩn bị của bố mẹ Hạnh để hai người thuận đường sống chung, mà lại đi theo con đường của chú Ngọc (một cán bộ địa chất) vạch ra, lên những vùng núi đá thăm dò khoáng sản.
Xa mặt, cách lòng, lần gặp sau, Hạnh đã đi cùng một người đàn ông khác, trên tay bồng theo đứa bé và sâu thẳm những lời trách hờn của Hạnh. Sau đó, Thúy được cử đi học ở Liên Xô. Sang đó, Thúy không theo học khoa địa chất như đã định, mà chuyển sang theo học khoa kinh tế-tài chính theo lời thuyết phục của đồng chí phụ trách lưu học sinh.
Sau 4 năm học tại Liên Xô, Thúy về nước, tham gia hoạt động cách mạng bí mật ở Sài Gòn. Sài Gòn giải phóng, Thúy quay trở lại Hà Nội, tới K24, nơi tiếp nhận những cán bộ đi B trở về. Thúy lấy vợ, một người đàn bà không được miêu tả rõ hình hài khuôn mặt, nhưng lại được phác họa bằng những hành động nhân ái và cảm thông. Thúy được điều về làm việc ở một tổ chuyên viên cấp cao, có nhiệm vụ theo dõi và nghiên cứu những vấn đề quan trọng trong chiến lực kinh tế.
Bằng năng lực của mình và nhờ sự giúp đỡ của ông tổ phó, dần dần Thúy lên chức. Con đường đó thuận lợi nhờ vào cả Hạnh (chồng Hạnh là người giúp Thúy bước lên cái chức đó).
Lan - nhân vật được miêu tả rất đẹp nhưng lại có cuộc sống nổi chìm, lưu lạc, cuối đời hóa thành một bà già sống đơn độc nơi đất khách quê người nhưng lại luôn tồn tại một tình yêu không nói nên lời thời son trẻ. Là nhân vật ảnh hưởng nhiều nhất, day dứt nhất trong tâm tưởng của nhân vật Thúy, nhưng Lan lại có kết thúc không có hậu: Ly hôn chồng – Minh – là hàng xóm thân thiết nhưng có thói trăng hoa; em trai hi sinh trong một trận chiến, còn người mẹ vì quá thương con rồi cũng qua đời.
Lan theo chị gái buôn bán, có lần vô tình chạm mặt với Thúy ở quán bánh ngọt Sài Gòn rồi cũng cố ý lướt qua nhau cùng nỗi nhớ nhung da diết.
Lan sang Pháp sống rồi lại trở thành con nuôi của bác Lân (người cùng quê ở Vinh) ở Phalsbourg và sau cùng Lan chết vì bị viêm phổi cấp cũng tại Phalsbourg trước lúc chuẩn bị ra sân bay trở về Việt Nam. Trước khi nhắm mắt, Lan nghẹn ngào nói với chị gái mình: “Có lá thư em viết nhưng chưa gửi cho Thúy, chị lấy và đưa cho Thúy. Chị rút tiền của em gửi ở ngân hàng Paris để mua quà cho vợ con Thúy”. Tình yêu của Lan dành Thúy không cho một đáp án rõ ràng nhưng lại ám ảnh bạn đọc.
Kết thúc truyện là những khuôn mặt già, họ trở về quê sau những năm tháng mê mải với sang giàu, chức phận. Họ đi qua chiến tranh. Họ nhìn lại những khoảnh khắc tuổi thanh xuân và nhận ra cái việc mình muốn một cuộc sống yên lắng ở quê hương.
“Như những tiếng chuông buồn thảm ngày xưa vẫn vang vẳng trong tâm trí của ông Thúy. Và có lẽ, ở một thị trấn yên tĩnh nào đó trong vùng Lorraine của nước Pháp, bà Lan, một người đàn bà Việt Nam lưu lạc, cũng nghe vang vọng những tiếng chuông của quá khứ”.
Với giọng kể dứt khoát, lối kể rõ ràng, rành mạch, phân rõ bố cục trong “Hương quê”, Nguyễn Đức Giáp đã dựng lên một bức tranh màu xám, giống như màu mây lúc trời sắp mưa và lúc mưa.
Con người chuẩn bị tránh những trận mưa như thế nào để cho khỏi ướt, người ta quan sát sự chuyển động của cuộc sống như thế nào trong mưa. Trước trận mưa là thời thơ ấu, hoặc nắng rát của mùa hạ, hoặc mát mẻ của mùa thu; trong lúc mưa là thời son trẻ, con người tránh mưa kiểu gì để khỏi ướt, chọn con đường nào ít có cây đổ, đường trơn, trời có thể có chút nắng như mưa bóng mây và sau mưa sẽ là tuổi cuối mùa: Hoặc vẫn lem nhem ướt, hoặc trời ửng nắng luôn, là lúc con người phải đối mặt với sinh tử.
Những chuyện trong chiến tranh, trong thời kỳ đổi mới và sau đổi mới, cuộc sống trời Đông, trời Tây… được tác giả tái hiện một cách sinh động như chính những trải nghiệm của tác giả với những tầm bao quát, hiểu biết rộng lớn.
Và trong câu chuyện này, tình yêu của Lan và Thúy phải chăng như một câu trả lời của một nhà văn đã từng nói: “Vì sao Romeo và Juliet chết? Vì nếu họ không chết thì tình yêu của họ sẽ không vĩnh hằng”???
Mai Diệp Văn