Phó Chủ tịch JETRO Hironobu Kitagawa |
Theo Phó Chủ tịch JETRO, một nguyên nhân dẫn tới sự tăng trưởng của Việt Nam là thành công trong việc thu hút các doanh nghiệp nước ngoài và mở rộng hoạt động xuất khẩu. Về xuất khẩu, năm 1986, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chưa bằng 1/10 của Malaysia hay Thái Lan. Tuy nhiên, vào năm 2018, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên hơn 240 tỷ USD, bắt kịp các quốc gia láng giềng này.
Các nỗ lực của Việt Nam nhằm cải thiện chính sách thương mại quốc tế bằng cách theo sát các xu hướng trên thế giới đã được các doanh nghiệp nước ngoài đánh giá cao. Đáng chú ý, các nỗ lực này bao gồm việc đưa vào thực thi Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Các nỗ lực của Việt Nam nhằm tạo nền tảng cho một môi trường đầu tư mở cho hàng loạt quốc gia và khu vực, như việc tổ chức Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản, nơi các doanh nghiệp và tổ chức của Nhật Bản thảo luận với chính phủ của hai nước, hay Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) với sự tham gia của các doanh nghiệp phương Tây, cũng góp phần không nhỏ vào các nỗ lực này.
Trong cuộc khảo sát về tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp Nhật Bản ở châu Á và châu Đại Dương do JETRO tiến hành trong năm 2019, các doanh nghiệp Nhật Bản đánh giá Việt Nam cao nhất trong khối ASEAN khi có tới 63,9% trong số doanh nghiệp được hỏi cho biết họ dự định sẽ mở rộng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Ông Kitagawa cho biết, về môi trường đầu tư, “quy mô thị trường và tiềm năng tăng trưởng” và “sự ổn định chính trị và xã hội” là hai nhân tố được các doanh nghiệp Nhật Bản đánh giá cao nhất. Theo Phó Chủ tịch JETRO, “có thể coi đây là lời khen ngợi về sự ổn định trong chính sách mở cửa nền kinh tế của Việt Nam với các quốc gia khác và hệ thống quản trị của nước này”.
Tuy nhiên, có 61,1% doanh nghiệp tham gia cuộc khảo sát trên bày tỏ quan ngại về vấn đề “chi phí nhân công tăng”, 42,6% quan ngại về vấn đề “quản trị chính sách không rõ ràng của chính quyền địa phương” và 38,6% lo ngại về vấn đề “tỷ lệ nhân viên chuyển việc cao”. Đây chính là các nhân tố đứng đầu trong danh sách “các rủi ro liên quan tới môi trường kinh doanh”.
Mặt khác, cho dù các doanh nghiệp tham gia cuộc khảo sát chỉ ra rằng các rủi ro liên quan tới các thủ tục hành chính đã giảm, nhưng khi được hỏi về các rủi ro trong quá trình kinh doanh ở Việt Nam, các doanh nghiệp Nhật Bản vẫn nêu ra một số rủi ro như việc giảm các ưu đãi đầu tư hay tình trạng thiếu điện. Theo ông Kitagawa, việc giải quyết từng quan ngại này sẽ giúp tạo điều kiện cho việc tiếp tục đầu tư và mở rộng các dự án.
Theo Phó Chủ tịch JETRO, đến thời điểm này, các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Nhật Bản, vẫn coi Việt Nam là cơ sở sản xuất và Việt Nam đang phát triển ở tầm cao hơn. “Chúng ta cần nhận thức rõ tiềm năng của sự hợp lực thông qua việc kết hợp tri thức của Nhật Bản và Việt Nam. Với sự ra đời của các kỳ lân như VNG (Công ty Cổ phần Tập đoàn Vina) trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tiềm năng của Việt Nam có thể cao hơn so với Nhật Bản. Hoạt động giao lưu của giới thanh niên, như giữa các sinh viên đại học và các nguồn nhân lực có kỹ năng cao của hai nước đóng vai trò rất quan trọng cho sự hợp lực này”.
Bên cạnh đó, một lĩnh vực tiềm năng khác cho sự hợp lực giữa Việt Nam và Nhật Bản đó là nông, lâm và ngư nghiệp. Có gần 40% (chính xác là 37,7%) lực lượng lao động của Việt Nam đang làm việc trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, do lĩnh vực này chỉ chiếm chưa tới 20% (chính xác là 15%) GDP của Việt Nam nên cần phải nâng cao giá trị gia tăng trong ngành này.