Về vấn đề này, Bộ Tài chính trả lời như sau:
Tại khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định:
“Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”.
Căn cứ quy định trên, hộ gia đình là những thành viên trong hộ khẩu.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Thông tư 76/2014/TT-BTC ngày 16/6/2014 thì:
Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 5, Điều 6, Điều 7, Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP; diện tích đất ở được xác định trong hạn mức để tính thu tiền sử dụng đất được hướng dẫn như sau:
1. Việc xác định diện tích đất trong hạn mức phải đảm bảo nguyên tắc mỗi hộ gia đình (bao gồm cả hộ gia đình hình thành do tách hộ theo quy định của pháp luật), cá nhân chỉ được xác định diện tích đất trong hạn mức giao đất ở hoặc hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở một lần và trong phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”.
Căn cứ các quy định trên, hạn mức giao đất ở hoặc hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở được tính một lần và trong phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho mỗi hộ gia đình (bao gồm cả hộ gia đình hình thành do tách hộ) gồm các thành viên có tên trong hộ khẩu đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, công nhận quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
Chinhphu.vn