Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Trình bày Tờ trình dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi tại Quốc hội chiều nay (6/11), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết: Dự thảo bãi bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính trong luật hiện hành và sửa đổi thành “Nhà nước không thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa những người cùng giới tính”, đồng thời quy định cụ thể nguyên tắc giải quyết quan hệ chung sống giữa họ.
Theo Bộ trưởng, người đồng tính và chung sống với nhau, coi nhau là vợ chồng là vấn đề thực tế ở Việt Nam. Đến nay, Việt Nam chưa có điều tra chính thức về số người đồng tính nhưng đã có nhiều trang diễn đàn, câu lạc bộ dành cho họ với số lượng thành viên tham gia khá cao.
Các trường hợp người đồng tính ở Việt Nam công khai việc sống chung và được gia đình họ thừa nhận ngày càng tăng lên. Cộng đồng người đồng tính dưới nhiều hình thức khác nhau cũng đã thể hiện mong muốn được Nhà nước công nhận và bảo vệ quyền được sống theo bản dạng giới và khuynh hướng tính dục của mình.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về tỷ lệ người đồng tính, song tính trong dân cư cho thấy có khoảng từ 1% đến 9% người ở độ tuổi sinh hoạt tình dục tự nhận họ là người đồng tính hoặc song tính. Theo Điều tra về phát triển gia đình của Hoa Kỳ (National Survey on Family Growth - NSFG) năm 2002 thì có 4,1% nam giới, 4,1% nữ giới nhận mình là người đồng tính. Nếu lấy tỷ lệ trung bình “an toàn” được nhiều nhà khoa học thừa nhận là 3% thì con số tạm tính lượng người đồng tính, song tính ở nước ta vào khoảng 1,65 triệu người (tính trên dân số ở độ tuổi từ 15 đến 59).
Bên cạnh đó, mặc dù pháp luật hiện hành đã cấm việc kết hôn giữa những người cùng giới tính nhưng việc chung sống như vợ chồng giữa những người này vẫn diễn ra. Thậm chí có những trường hợp gia đình và người đồng tính đã tổ chức công khai lễ cưới và các cơ quan Nhà nước cũng đã phải áp dụng các biện pháp khác nhau để xử lý nhưng vẫn không giải quyết được thực trạng này. Trong điều kiện phát triển KT-XH và kinh nghiệm quốc tế, việc cấm đoán và xử lý hành chính như hiện hành không còn phù hợp, do đó cần thay đổi quan niệm và phương thức quản lý Nhà nước về vấn đề này.
Hơn nữa, hôn nhân giữa những người cùng giới tính là vấn đề có tính nhạy cảm xã hội. Vì vậy, việc thừa nhận hôn nhân của họ cũng cần phải được xem xét, cân nhắc, nhìn nhận trên nhiều khía cạnh khác nhau với lộ trình, bước đi phù hợp.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, xét dưới góc độ văn hóa, quan niệm truyền thống về hôn nhân và gia đình, Chính phủ cho rằng Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhưng cũng không can thiệp bằng các biện pháp hành chính vào quyền được sống theo bản dạng giới, khuynh hướng tính dục của họ.
Đồng thời, cần tôn trọng việc sống chung giữa người đồng tính cũng như thỏa thuận của họ trong việc xác lập, giải quyết các vấn đề phát sinh từ cuộc sống chung. Ngoài ra, pháp luật cũng cần có quy định thích hợp để giúp họ giải quyết một cách ổn thỏa các hậu quả pháp lý của việc sống chung này nhằm góp phần bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của các đương sự và sự ổn định của xã hội.
Cũng theo Bộ trưởng Hà Hùng Cường, việc kết hôn giữa những người cùng giới tính trên thế giới được giải quyết theo nhiều cách thức và mức độ khác nhau. Tính đến tháng 8/2013, đa số các quốc gia không cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính nhưng cũng không thừa nhận hôn nhân giữa họ (Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc…); 16 quốc gia công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính (Hà Lan, Bỉ, Argentina, Tây Ban Nha, Canada, Nam Phi, Na Uy, Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Iceland, Đan Mạch, Urugoay, New Zealand, Pháp, Anh, Brazil); 17 quốc gia mặc dù không thừa nhận hôn nhân nhưng đã thừa nhận việc chung sống có đăng ký giữa những người cùng giới tính (Đức, Áo, Colombia, Hungary, Thụy Sỹ, Slovenia…).
Đối với những nước thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính thì kinh nghiệm của một số nước cho thấy, việc giải quyết vấn đề này thường được thực hiện theo một lộ trình. Trước hết, Nhà nước thừa nhận việc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới tính sau đó mới thừa nhận hôn nhân giữa những người này.
Ví dụ: Canada thừa nhận quyền chung sống giữa những người cùng giới tính vào năm 1999, đến năm 2005 mới thừa nhận hôn nhân này. Pháp thừa nhận quyền chung sống giữa những người cùng giới tính từ năm 1999 và đến năm 2013 mới thừa nhận hôn nhân của họ...
Tán thành với dự thảo của Chính phủ về vấn đề này, Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng hiện nay trong xã hội vẫn đang còn những ý kiến khác nhau về vấn đề này, cơ quan soạn thảo cần đánh giá đầy đủ việc thực hiện quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính trong Luật hiện hành, nghiên cứu thực tế cũng như kinh nghiệm của các nước trong khu vực, các nước có các điểm tương đồng về truyền thống văn hóa với Việt Nam. Đồng thời, đánh giá tác động về mặt xã hội, văn hóa, tâm lý... đối với việc sửa đổi quy định này phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Cũng theo Uỷ ban các vấn đề xã hội, hiện có hai luồng ý kiến về hôn nhân đồng tính. Luồng ý kiến thứ nhất đồng ý với quy định như dự thảo Luật, vì hiện nay, quan niệm và nhận thức của xã hội về vấn đề trên đã thay đổi so với thời điểm thông qua Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Ở góc độ quyền con người, việc bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính thể hiện tính nhân văn, góp phần giảm sự kỳ thị đối với nhóm người này và là cơ sở pháp lý giải quyết hậu quả trên thực tế đối với tình trạng chung sống của một bộ phận người cùng giới tính.
Luồng ý kiến thứ hai đề nghị giữ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính như hiện hành vì cho rằng, kết hôn là xác lập quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ, việc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới tính là không phù hợp với đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục, truyền thống gia đình Việt Nam cũng như không đảm bảo chức năng của gia đình về duy trì nòi giống, không nên khuyến khích để mối quan hệ này phát triển.
Linh Đan