In bài viết

Kiên Giang: Nhìn lại dự án trồng mới 5 triệu ha rừng

Kiên Giang là tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên 626.904 ha. Ngoài thế mạnh về nông nghiệp, hải sản, công nghiệp, rừng Kiên Giang có vị trí quan trọng cả về mặt kinh tế-xã hội, môi trường, nghiên cứu khoa học và an ninh quốc phòng; có hệ sinh thái rừng phong phú và đa dạng như: Rừng gỗ lớn, rừng tràm, rừng ngập mặn, với nhiều loại thực vật quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam và thế giới.

29/08/2011 13:52
Trong những năm 1980, diện tích đất hoang hóa của Kiên Giang còn rất lớn, trên 116.000 ha, do đó vấn đề trồng lại rừng phủ xanh diện tích đất trống là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh. Triển khai Nghị quyết của Quốc hội khóa X về dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 661 (gọi tắt là Chương trình 661) về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng; đồng thời Bộ NN-PTNT và các Bộ, ngành Trung ương đã có nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện dự án. Thực hiện tinh thần chỉ đạo đó, đầu năm 1999, UBND tỉnh Kiên Giang đã tổng kết 6 năm thực hiện Chương trình 327 và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 1999-2010. Qua 12 năm tổ chức thực hiện dự án và theo nội dung điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006-2015, đến nay Kiên Giang có 85.778,4 ha, trong đó đất rừng phòng hộ 24.047,9 ha (giảm 6.140 ha, chủ yếu chuyển sang rừng sản xuất và đất nông nghiệp), rừng đặc dụng 40.945,5 ha (giảm 1.347,5 ha, chuyển sang đồng cỏ bàng Kiên Lương xuống thành rừng phòng hộ do không đủ tiêu chí rừng đặc dụng) và đất rừng sản xuất là 20.785 ha (giảm 18.549,8ha, chuyển sang sản xuất nông nghiệp ở huyện Hòn Đất và Kiên Lương).
Đồng chí Lâm Hoàng Sa, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, cho biết: “Trong quá trình triển khai Chương trình 661, xuất phát từ nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bố trí dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng... tỉnh Kiên Giang đã nhiều lần điều chỉnh tổng quan lâm nghiệp. Qua mỗi lần điều chỉnh, diện tích đất lâm nghiệp tiếp tục giảm. Từ quy hoạch diện tích đất lâm nghiệp năm 1999 là 145.053 ha, đến năm 2005 còn 111.817 ha, định hướng đến năm 2015 chỉ còn lại 85.778 ha. Do có bước chủ động trong việc điều chỉnh quy hoạch trước khi triển khai các dự án đầu tư lâm nghiệp nên việc lập quy hoạch, triển khai kế hoạch hàng năm theo đúng tiến độ phân kỳ đầu tư của dự án, hạn chế tình trạng trùng lắp, chồng chéo quy hoạch với các ngành kinh tế khác. Nguyên nhân chính giảm đất lâm nghiệp là do tách đất nông nghiệp và đất thổ cư ra khỏi đất lâm nghiệp theo quy hoạch đã được duyệt trước đây; chuyển một phần diện tích rừng phòng hộ và đặc dụng Phú Quốc để phát triển du lịch theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; chuyển diện tích đất rừng phòng hộ và đất rừng sản xuất huyện Hòn Đất, Kiên Lương sang sản xuất nông nghiệp vì trồng tràm không mang lại hiệu quả, nguy cơ cháy rừng cao; do công trình đê biển và thực hiện dự án kinh tế vùng đệm U Minh Thượng theo dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt...”.
Công tác giao đất, giao rừng, cho thuê đất, thuê rừng, giao khoán rừng là đất lâm nghiệp cho tổ chức, cá nhân ở Kiên Giang thực hiện tương đối tốt. Theo đó, tính đến nay, tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp đã được giao là 99.056 ha, trong đó cấp cho tổ chức 84.118 ha (đất có rừng 12.120 ha, đất chưa có rừng 9.496 ha), giao cho hộ gia đình 14.938 ha (đất có rừng 74.622 ha, đất chưa có rừng 2.818 ha); đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho tổ chức được 114 giấy và hộ gia đình là 6.679 giấy. Đến nay Ban quản lý dự án 661 đã hoàn thành việc đo đạc, cấp sổ giao khoán cho 3.506 hộ với diện tích 10.095 ha và ranh giới vùng dự án cũng được xác định rõ ràng cả trên bản đồ và ngoài thực địa để tạo điều kiện cho hộ dân an tâm giữ rừng. Bên cạnh đó, nhằm huy động vốn đầu tư và kinh nghiệm sản xuất của các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh để khai thác đất hoang hóa, UBND tỉnh đã giao cho 68 doanh nghiệp thuê 6.213 ha đất để sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại nông-lâm-ngư ở vùng Tứ giác Long Xuyên (bình quân mỗi trang trại có diện tích từ 50-100 ha).
Có thể nói, nét chuyển biến trong công tác trồng rừng ở Kiên Giang là huy động được nhiều nguồn vốn để khôi phục vốn rừng, nhanh chóng phủ xanh diện tích đất trống. Từ năm 1999-2006, phong trào trồng rừng sản xuất trong các tổ chức và nhân dân phát triển mạnh, tập trung ở các huyện Giồng Riềng, Hòn Đất, Kiên Lương, An Minh. Đáng chú ý là mô hình kinh tế trang trại sản xuất nông-lâm-ngư kết hợp được tỉnh Kiên Giang khuyến khích phát triển ở vùng Tứ giác Long Xuyên, góp phần khôi phục vốn rừng, phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa và giải quyết việc làm cho người dân địa phương. Tuy nhiên, đến nay rừng sản xuất bị mất là 11.225 ha, chiếm tỷ lệ 63,4% diện tích đã trồng. Nguyên nhân là từ năm 2006 đến nay giá cừ tràm sụt giảm mạnh, hiệu quả kinh tế mang lại thấp nên mới 2-4 năm tuổi đã bị phá bỏ để chuyển sang sản xuất nông nghiệp theo quy hoạch đã được phê duyệt điều chỉnh.
Theo đồng chí Lâm Hoàng Sa, qua thời gian triển khai Chương trình 661, mặc dù UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo các ngành chức năng và các cấp chính quyền địa phương đẩy mạnh công tác trồng rừng tập trung và cây phân tán trong nhân dân. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, như sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, bố trí dân cư, xây dựng công trình kết cấu cộng thêm tốc độ gia tăng dân số và nhu cầu giải quyết việc làm cho người dân địa phương, nên mỗi lần điều chỉnh quy hoạch lâm nghiệp, diện tích rừng và đất rừng Kiên Giang mỗi năm một giảm. Dù vậy, diện tích rừng đặc dụng vẫn ổn định, chỉ sụt giảm diện tích rừng sản xuất do chuyển 21.000 ha rừng trồng bạch đàn của Cty Kiên Tài sang sản xuất nông nghiệp và thực hiện quy hoạch chung xây dựng đảo Phú Quốc đến năm 2030 có chuyển một phần diện tích phòng hộ sang đất khác. Do đó, diện tích trồng rừng của dự án 661 không đủ bù đắp được diện tích rừng bị mất do chuyển mục đích sử dụng (năm 1999 diện tích đất lâm nghiệp là 145.053 ha, đến năm 2005 còn 85.778 ha, giảm 59.275 ha), dẫn đến độ che phủ rừng của Kiên Giang cũng giảm theo. Năm 1999 độ che phủ là 20,13%, với diện tích rừng 126.172 ha đến năm 2009, độ che phủ còn 15,61%, với diện tích rừng còn 99.056 ha.
Tuy vậy, việc đẩy mạnh công tác quản lý, phát triển rừng và chính sách xã hội hóa nghề rừng đã mang lại hiệu quả thiết thực cho công tác xóa đói, giảm nghèo. Việc thiết lập những khu rừng tràm tập trung và hệ thống kênh mương phòng, chống cháy rừng tương đối hoàn chỉnh đã có tác dụng tích cực trong việc tháo chua, rửa phèn, từng bước cải tạo vùng đất hoang hóa vùng Tứ giác Long Xuyên sang sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao diện tích, năng suất, sản lượng lúa của tỉnh. Năm 1999, năng suất lúa của Kiên Giang chỉ đạt 3,94 tấn/ha, đến năm 2009 đạt 5,56 tấn/ha, giải quyết việc làm cho nhiều người lao động ở địa phương. Triển khai Chương trình 661, ngoài nguồn vốn ngân sách Nhà nước, Kiên Giang còn huy động vốn của các tổ chức nước ngoài và các thành phần kinh tế khác. Từ đó, mỗi năm giải quyết việc làm bình quân khoảng 1.200 lao động tại địa phương, thông qua các hoạt động như: Trồng rừng, chăm sóc rừng trồng, khoanh nuôi tái sinh, khoán bảo vệ rừng, thực hiện mô hình nông-lâm-ngư kết hợp, thu hái lâm đặc sản dưới tán rừng... Ngoài ra, việc đẩy mạnh công tác trồng rừng ven biển, dọc theo các tuyến kênh thoát lũ đã góp phần hạn chế tình trạng sạt lở đê biển, bờ kênh, giảm thiểu tác hại thiên tai, lũ lụt. Điều quan trọng hơn, thông qua việc phối hợp với các chương trình kinh tế-xã hội tại địa phương và giải quyết việc làm cho người lao động, Chương trình 661 đã góp phần vào mục tiêu xóa đói, giảm nghèo của tỉnh. Nếu năm 1999, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh Kiên Giang là 10,1%, đến nay giảm xuống còn 7,45%.
Lê Sen