In bài viết

Kỷ niệm 36 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/04/1975 - 30/04/2011): Trai Hà Nội và những chiến công trên chiến trường

HNP - Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng vào ngày 30/04/1075, đã kết thúc cuộc đấu tranh giải phóng dài nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cách đây đúng 36 năm. Thời gian đó đã đủ để một thế hệ trưởng thành trong hòa bình. Vào thời điểm này, mọi người quan tâm nhắc đến những người “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đã làm nên chiến công năm xưa.Nhân dịp này, chúng ta hãy dành chút thời gian để gặp gỡ những chàng trai Hà Thành, nơi khởi nguồn của phong trào “Ba sẵn sàng” và quê hương của “Chiếc gậy Trường Sơn” với những chiến công của họ trên chiến trường.

24/04/2011 00:31


Dũng sỹ mở đường trận đánh Huội San
Ra đời năm 1965, trung đoàn 7 là con út trong đội hình các trung đoàn công binh. Nhưng trong sổ vàng truyền thống của binh chủng, trung đoàn luôn ở vị trí hàng đầu, hai lần được phong tặng danh hiệu cao quí đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trung đoàn là đơn vị đầu tiên tham gia bảo đảm chiến đấu và chiến đấu trong đội hình binh chủng hợp thành, bảo đảm cơ động cho xe tăng xuất kích tiến công địch ở chiến trường miền Nam. Lần đầu tiên có trung đội công binh do chuẩn úy, kỹ sư Bùi Ngọc Dương chỉ huy, cùng xe tăng ta tiêu diệt địch ở Huội San (Quảng Trị). Và với chiến công này, chàng trai Hà Nội đó là người đầu tiên trong hàng ngũ trí thức được đào tạo dưới mái trường XHCN, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Đoạn đường từ Bản Đông đến Huội San là địa bàn hành quân chiến đấu của bộ đội ta. Đoạn đường này dài 15km, có 8 cầu đều hư hỏng, địch rải mìn bộ binh các loại thành từng bãi dài dày đặc. Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho đơn vị đưa bộ đội vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, mở cửa cho pháo binh vào trận địa và đảm bảo cho các đại đội xe tăng vào vị trí xuất phát tấn công. Trung đoàn quyết định trung đội 1 của Bùi Ngọc Dương và trung đội 2 vượt cầu Cha Ky thực hiện phương án phá mìn. Khi pháo của ta bắn cấp tập vào Huội San, công binh bắt đầu điểm hỏa phá mìn trên mặt đường, phá vật cản mở đường tránh.

Đội hình bộ đội công binh phá mìn của địch bị thương vong, nhưng người trước ngã xuống, người sau xông lên. Ở chặng đường cuối cùng, trung đội 1 băng qua bom đạn, các ống bộc phá nổ lật tung hàng rào dây thép gai tạo nên hai cửa mở an toàn. Xe tăng gầm lên lao thẳng vào đồn giặc, nhưng bộ binh chưa lên kịp. Bùi Ngọc Dương hoạt động như con thoi, chỉ huy trung đội cùng xe tăng xung phong diệt giặc. Bùi Ngọc Dương còn lao lên xe tăng sử dụng súng 12 ly 7 bắn trả máy bay địch buộc chúng phải bay lên cao. Cùng lúc đó anh bị thương, cánh tay trái gần đứt hẳn. Anh yêu cầu cắt cánh tay và tiếp tục chiến đấu. Tấm gương chiến đấu dũng cảm của Bùi Ngọc Dương càng làm tăng khí thế diệt thù của các chiến sỹ. Họ đã tiêu diệt và làm tan rã quân địch ở Huội San, thu nhiều vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, mở đường cho bộ đội thừa thắng tiến lên.

Trong niềm vui chiến thắng, không chỉ trung đoàn 7 mà tất cả cán bộ, chiến sỹ bộ binh, xe tăng, pháo binh tham gia trận đánh đều thương tiếc khi nghe tin trung đội trưởng, kỹ sư Bùi Ngọc Dương, chàng trai Hà Nội chiến đấu kiên cường, anh dũng đã hy sinh vào tháng 1/1968.
Tháng 7/1999, một đường phố thuộc quận Hai Bà Trưng đã mang tên Bùi Ngọc Dương. Còn ở phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai đã khắc tên liệt sỹ anh hùng Bùi Ngọc Dương (1943 - 1968) trên tấm bia tại nhà bia tưởng niệm liệt sỹ của quê nhà.

Anh hùng liệt sĩ Bùi Ngọc Dương


Anh lái đò dưới chân cầu Cà Ná
Vào thời gian từ năm 1965 đến hết năm 1967, những chiến sỹ đã vượt đường số 9 dưới chân cầu Cà Ná vượt sông Ba Lồng vào chiến trường Trị Thiên chiến đấu chắc chắn khó quên người chiến sỹ lái đò đưa mình qua sông.
Chiến sỹ lái đò ấy dáng người nhỏ nhắn, trắng trẻo vừa chèo đò, vừa điều khiển các hoạt động ở đôi bờ. Các chiến sỹ đơn vị Đạo Lộ thanh niên xung phong (TNXP) K53 vẫn thường gọi anh là "Thày Tú" vì anh là người duy nhất của đơn vị đã đỗ tú tài, đảm nhận cả việc dạy văn hóa cho đồng đội.
Lúc đầu anh làm trinh sát bảo vệ bến đò, thấy thiếu người lái đò nên sau mỗi buổi làm nhiệm vụ, anh lại xuống bến học chèo đò. Thế rồi anh nhanh chóng trở thành một lái đò thực thụ đưa bộ đội qua sông dưới chân cầu Cà Ná.
Con đò độc mộc trên con sông này bao nhiêu năm rồi chỉ chở được 6 hoặc 7 người qua dòng sông chảy xiết nơi thượng nguồn. Anh đã cùng du kích địa phương vận động bà con dân tộc Tà Ôi, Vân Kiều hạ cây, đẽo, làm một con đò lớn hơn có khả năng trở được cả trung đội vượt sông.
Con sông Ba Lồng lắm đá ngầm, nước chảy xiết và bom đạn địch trút xuống không kể ngày đêm. Các chiến sỹ TNXP chiến đấu ở đây không hề ngưng nghỉ kể cả những ngày con lũ rừng cuồn cuộn đổ về. Nhiều lần cả tiểu đội phải cùng anh dầm mình trong nước lạnh để giữ con đò qua con lũ hung dữ. Đó là chưa kể chỉ xuôi xuống chừng 2 hoặc 3 km có bốt địch số 41, Đầu Mầu án ngữ.
Cứ như vậy suốt 7 năm trời, vừa đánh địch vừa bảo vệ bến đò, đơn vị Đạo Lộ TNXP K53 đã duy trì và đảm bảo an toàn cho những chuyến đò vượt sông chở bộ đội, cán bộ, đạn dược, lương thực vào chiến trường, chở thương binh, bệnh binh, thư từ, công văn ra miền Bắc. Đơn vị TNXP K53 là một trong những đơn vị TNXP của thủ đô Hà Nội được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Sau đại hội chiến sỹ thi đua quân khu Trị Thiên, anh được cử ra miền Bắc và được vào học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Từ người lái đò trên chiến trường, anh đã trở thành người lái đò chở lớp lớp đàn em thơ vào đời. Đó là anh Đỗ Quốc Phong, chàng trai của quê hương “Chiếc gậy Trường Sơn”, xã Hòa Xá, huyện Ứng Hòa, nay thuộc Hà Nội.
Suốt mấy chục năm trong ngành giáo dục cho đến lúc nghỉ hưu, thầy giáo Đỗ Quốc Phong liên tục được công nhận là giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, được Bộ GD & ĐT tặng nhiều bằng khen. Anh còn được Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội khen thưởng về thành tích chăm sóc, dạy dỗ con em thương binh, liệt sỹ. Hiện nay, anh là ủy viên Ban chấp hành Hội cựu TNXP Việt Nam, Phó chủ tịch Hội cựu TNXP Hà Nội.

Đỗ Quốc Phong đứng bên phải nguyên Tổng Bí thư
Lê Khả Phiêu cùng đồng đội TNXP K53


Người bắn nhiều máy bay trực thăng Mỹ
Đó là Lê Hữu Tựu (1944 - 1972) quê ở xã Nguyên Khê, huyện Đông Anh.
Tháng 4 năm 1965, Lê Hữu Tựu nhập ngũ, vào Nam chiến đấu. Anh cùng đơn vị tham gia các chiến dịch, đánh hơn 50 trận (có 28 trận trực tiếp bắn máy bay) trên chiến trường Khu 5, bắn rơi 31 máy bay trực thăng, diệt 64 tên giặc lái và bộ binh địch. Lê Hữu Tựu là một xạ thủ mưu trí, linh hoạt, dũng cảm, trong hoàn cảnh nào cũng tích cực đánh địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Mùa thu năm 1967, có lần trận địa bị máy bay địch bắn phá, khẩu đội bị cây to che khuất, anh bất chấp nguy hiểm, trèo lên cây chặt cành, tạo thuận lợi cho khẩu đội nổ súng. Trận này, Tựu bắn rơi 8 máy bay lên thẳng. Mùa đông năm 1967, đơn vị chiến đấu với máy bay địch trong 5 ngày. Ngay ngày đầu, 3 chiếc máy bay lên thẳng lao đến, bằng 2 loạt đạn chính xác, Lê Hữu Tựu bắn rơi 2 chiếc. Hôm sau, địch rải chất độc hóa học xuống trận địa và cho bộ binh tiến công. Thấy địch đến gần, Lê Hữu Tựu cùng đồng đội hạ nòng súng bắn diệt nhiều tên, buộc địch bỏ chạy. Buổi chiều, với 3 điểm xạ ngắn, anh diệt 3 máy bay địch tại chỗ. Hè năm 1968, đại đội chốt trên núi Ngang, Lê Hữu Tựu cùng khẩu đội chiến đấu suốt 40 ngày đêm, khi bắn máy bay, khi cơ động diệt máy bay sát cứ điểm địch. Bị thương, anh vẫn chống gậy hành quân, khi máy bay địch đến, Lê Hữu Tựu nén đau cùng anh em bắn rơi 2 máy bay địch.
Lê Hữu Tựu đã được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công giải phóng (1 hạng Nhất, 1 hạng Nhì, 1 hạng Ba). Ngày 15/02/1970, Lê Hữu Tựu được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Khi đó anh là đại đội phó đại đội 3, tiểu đoàn 14 phòng không, sư đoàn 2, Quân khu 5.

Anh hùng Lê Hữu Tựu

Năm tháng sẽ qua đi nhưng chiến công của những thanh niên Hà Nội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vẫn còn ghi lại trong sử sách. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng của họ còn tỏa sáng trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hôm nay.

Bùi Dư