Ông Nguyễn Khang |
Ông Nguyễn Khang sinh năm 1919, tại xã Minh Hưng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Sớm giác ngộ cách mạng, ông đã thoát li và công tác trong cơ quan ấn loát bí mật của Xứ ủy Bắc Kì ngay tại huyện nhà từ những năm 1937 - 1938. Năm 1939, ông chuyển lên Hà Nội hoạt động, lần lượt phụ trách Đoàn Thanh niên phản đế liên tỉnh Hà Nội - Hà Đông - Sơn Tây - Bắc Ninh, tham gia Thường vụ Thành ủy Hà Nội. Năm 1941, ông bị đế quốc Pháp bắt, kết án khổ sai và đày đi Sơn La. Năm 1944, ông vượt ngục trở về tham gia Thường vụ Xứ ủy Bắc Kì phụ trách các tỉnh Hà Nội - Hà Đông - Sơn Tây, khu an toàn của Xứ ủy. Trong thời gian này, ông còn là biên tập viên Báo Cứu quốc, phụ trách Báo Hồn nước.
Tháng 8/1945, ông được phân công thay mặt Xứ ủy Bắc Kì chỉ đạo khởi nghĩa ở một số tỉnh và trực tiếp tổ chức chỉ đạo cuộc biểu tình giành chính quyền ở Hà Nội ngày 19/8. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Bí thư Liên khu Việt Bắc, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu I.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), ông trúng cử Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng, Đại hội toàn quốc lần thứ III (1960), trúng cử Ủy viên chính thức. Ông còn là đại biểu Quốc hội khóa II (1960 - 1964). Từ tháng 7-2001 ở quận Cầu Giấy có một phố mang tên Nguyễn Khang để ghi nhớ công lao của ông đối với đất nước.
Năm 1970, trong dịp kỉ niệm Cách mạng tháng Tám, ông Nguyễn Khang đã kể lại những ngày sôi sục khí thế giành chính quyền ở Hà Nội như sau:
"Ngày 18/8, Ủy ban Quân sự cách mạng dời hẳn vào trong thành phố, đặt trụ sở ở nhà số 101 đường Găm-bét-ta (nay là đường Trần Hưng Đạo). Đó là một tòa nhà kiến trúc và trần thiết rất cầu kỳ, cố làm ra vẻ “quý tộc” một cách lòe loẹt rởm đời: ngoài sân lủng củng những đôn, chậu, bể đắp và cây cảnh uốn hình rồng phượng; trong nhà, bàn, ghế, sập, tủ thảy đều sơn son thiếp vàng choáng lộn. Nhà ấy là của một người con gái Hoàng Trọng Phu, tên quan lại phong kiến đắc lực một thời của thực dân Pháp, bấy giờ bỏ vắng, nên ngẫu nhiên thành trụ sở của cơ quan chỉ đạo khởi nghĩa ở Hà Nội. Phương tiện làm việc của ta lúc ấy đã bắt đầu có nhiều cái khá hơn trước rõ ràng: có máy chữ, có một ra-đi-ô tốt, lại có cả một xe ôtô không biết anh Hương Đen vừa đi lấy ở đâu về.
Suốt ngày hôm ấy, công việc chuẩn bị được tiến hành gấp rút.
Khi đề ra khẩu hiệu đấu tranh, tôi nhớ là có một vấn đề chúng tôi phải cân nhắc rất nhiều mới giải quyết được. Một vấn đề tưởng như rất thường mà thật ra lại rất quan trọng. Từ khi phát xít Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945) ta vẫn nêu khẩu hiệu: “Đánh đuổi giặc Nhật”. Bây giờ, xét tình hình cụ thể trước mắt, có nên để khẩu hiệu đó nữa không? Khẩu hiệu đấu tranh cách mạng không dễ mỗi lúc mà tùy tiện thay đổi. Nhưng bọn Nhật từ chiều 17/8 vẫn chưa có thái độ gì can thiệp vào công việc của ta. Căn cứ vào so sánh lực lượng giữa ta và địch lúc đó, giữ sao cho chúng cứ tiếp tục thái độ ấy là một điều thuận lợi rất lớn cho việc tiến hành khởi nghĩa. Sau cùng, chúng tôi chọn được khẩu hiệu: “Chống mọi hành động của đế quốc can thiệp vào công cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam”. Nhân việc tìm khẩu hiệu cho thích hợp với tình hình, chúng tôi lại thấy cần thảo ngay một truyền đơn cho binh lính Nhật, khuyên họ đừng can thiệp vào việc nội bộ nước ta. Nhờ có người giới thiệu một anh thạo tiếng Nhật, nhà ở phố Hàng Da, tôi đi tìm để nhớ anh dịch hộ truyền đơn ấy.
Trong khi Ủy ban quân sự cách mạng làm việc, bên ngoài cả thành phố sục sôi một không khí đấu tranh chưa bao giờ rộng lớn và hăng say đến thế. Có thể nói, nhân dân Hà Nội hôm ấy (18-8) ai cũng chỉ một náo nức: xuống đường! Từ sáng cho đến đêm khuya, trên các ngả đường liên miên có những cuộc mít tinh, biểu tình hầu như do quần chúng tự tổ chức lấy, nhỏ độ hai, ba trăm, lớn tới hàng nghìn người. Các đội tự vệ, các đoàn thể cứu quốc tới tấp lo công việc chuẩn bị: may cờ, băng, bố trí liên lạc, vận chuyển vũ khí ở ngoại thành vào nội thành.
Một việc xẩy ra làm cho ta có thể để phán đoán thái độ của quân đội Nhật. Chiều hôm đó, anh em công nhân xưởng A-vi-a (ở phố Phan Chu Trinh) lấy một xe hơi mới được sửa chữa xong trong xưởng, mượn cớ mang đi thử máy rồi sang Gia Lâm chở vũ khí về. Chiếc xe đó là của nhà binh Nhật. Khi qua cầu, chúng bắt giữ lại, khám thấy có súng, bắt cả người và vũ khí đem về. Hàng vạn quần chúng kéo đến bao vây chặt các ngả đường, đấu tranh từ tối cho đến 11 giờ đêm. Bọn Nhật rút cục phải nhượng bộ.
Đêm hôm ấy, Hà Nội không ngủ. Từ các làng ngoại thành vào đến các phố, đèn thắp sáng trong các nhà, người chạy đi chạy về tới tấp, nơi thì họp bàn kế hoạch, nơi thì hối hả may thêm cờ. Một số anh em tự vệ chuẩn bị dựng cột cờ cao ở giữa quảng trường Nhà hát thành phố.
Sáng 19/8, chúng tôi dậy từ sớm tinh sương, dùng ôtô đi một vòng quanh thành phố. Từ các ngả đường đi vào trung tâm thành phố, đã thấy những đoàn biểu tình liên tiếp kéo đi không ngớt. Cờ đỏ sao vàng, chỉ có một ngày và một đêm may vội, sao mà nhiều thế, trông vào đâu cũng thấy đỏ rực. Bên bờ hồ Hoàn Kiếm, các đoàn trước khi vào quảng trường, dừng lại nghỉ, tập hát bài Tiến quân ca của Văn Cao. Đúng, khởi nghĩa là ngày hội lớn nhất của quần chúng, không sao quên được.
Từ trên Nhà hát thành phố, trông xuống như một biển người mênh mông, muôn lớp sóng đầu nhấp nhô ngập quảng trường và tràn ra xa tít hết con đường Tràng Tiền, Hàng Khay và các đầu phố ngang. Trên hàng đầu có các đội tự vệ với vũ khí đủ các thứ khác nhau: súng trường, súng săn, dao phạng, búa, xẻng, gậy gộc, nhưng trông cũng có tư thế chiến đấu lắm!
Mười giờ sáng, cuộc mít tinh bắt đầu làm lễ chào cờ. Sau khi nghe đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa giành chính quyền của Mặt trận Việt Minh, theo kế hoạch đã định, cuộc mít tinh biến thành tuần hành, nửa bên trái tiến về lấy phủ Khâm sai Bắc Kì, tòa thị chính, Sở cảnh sát trung ương, nửa bên phải đi chiếm trại bảo an ninh, Sở liêm phóng và nhà pha Hỏa Lò.
Tôi cùng một số đồng chí khác chỉ huy lực lượng vào chiếm phủ Khâm Sai Bắc Kì (sau đó gọi là Bắc Bộ phủ, nay là khách Chính phủ ở 12 phố Ngô Quyền). Ở đây, có hai đại đội lính bảo an. Khi ta đến, họ đứng ở phía trong rào sắt, súng cầm tay, ở tư thế chiến đấu. Khu vực của cơ quan này có ba mặt trông ra đường, nếu đánh nhau, rất khó có chỗ núp tiến lại gần. Nhưng ta vẫn kiên quyết tiến lên. Ta vừa kêu gọi anh em lính bảo an vừa huy động quần chúng xông vào. Người chỉ huy đội lính bảo an còn dùng dằng, thì một số anh em tự vệ đã lao qua rào sắt nhảy vào trong sân. Lính bảo an lập tức xếp hết súng ống thành đống trước sân và xin hàng.
Việc đầu tiên, khi lấy xong phủ Khâm sai, là thu vũ khí trang bị ngay cho các đội tự vệ của ta. Có đến hơn 200 súng trường. Lúc này, bọn “Ủy ban chính trị Bắc-Kỳ” có cả Nguyễn Xuân Chữ, Phạm Hữu Chương v.v… còn ở đây đã bị ta bắt giữ và đưa về giam ở làng Phù Đổng.
Quần chúng cách mạng chiếm Phủ Khâm sai |
Cờ đỏ sao vàng được treo lên ngay trên đỉnh cao nhất của phủ Khâm sai từ hơn 60 năm đã là nơi tiêu biểu quyền thống trị của thực dân ở miền Bắc: phủ Thống sứ Pháp. Đoàn quần chúng mà đa số là anh em tự vệ công nhân sau đó được vũ trang trở thành nòng cốt của đội quân cách mạng của ta ở Hà Nội đến chiếm trại bảo an binh (ở phố Hàng Bài) do anh Nguyễn Quyết chỉ huy, lúc đầu cũng không có gì trở ngại. Ta đã có cơ sở trong anh em binh lính, vận động họ từ trước. Khi quân cách mạng đến, viên đại úy chỉ huy đã phải cho mở cổng và chịu để ta tước vũ khí, đồng thời phải trao chìa khóa kho vũ khí ở đó cho ta. Ta đã nhanh chóng phân phát vũ khí cho các anh em tự vệ. Đến đây, xảy ra một việc: quân Nhật huy động một lực lượng khá lớn kéo đến với bốn xe tăng có bắc đại liên vít chặt bốn ngả đường và cho bộ binh tiến sát hàng rào trại lính.
Quân ta bố trí đội ngũ sẵn sàng chiến đấu. Bên ngoài, quần chúng biểu tình, trong đó có nhiều phụ nữ, cụ già, trẻ em, vẫn giữ nguyên hàng ngũ trước lưỡi lê và mũi súng đại liên của lính Nhật không hề lùi một bước.
Bọn Nhật thấy ta lấy được nhiều vũ khí, sợ quân ta nhân lúc sôi nổi, kéo tới đánh úp nên chúng vội đề phòng. Ta cử người đến giải thích là ta thấy chúng đã bại trận, chỉ còn chờ ngày về nước, nên thay đổi thái độ đối với chúng. Nếu muốn được bảo đảm yên thân chờ ngày về nước thì chúng không được can thiệp gì vào việc nội bộ của nhân dân ta. Đến chiều, trước sức mạnh đấu tranh của ta, bọn Nhật phải rút lui về vị trí cũ.
Anh Nguyễn Huy Khôi được giao nhiệm vụ lãnh đạo quần chúng tới chiếm Tòa thị chính thành phố (nay là trụ sở UBND TP Hà Nội). Ở đây, thị trưởng Hà Nội đã phải giao nộp tòa thị chính cho ta. Ngoài ba nơi này, các nơi khác trong thành phố đều chiếm được nhanh chóng, thuận lợi. Đến buổi chiều, cả thành phố Hà Nội đã vào tay chính quyền cách mạng.
Để bảo vệ thắng lợi của toàn bộ cuộc khởi nghĩa và sau khi cân nhắc về so sánh lực lượng rất chênh lệch giữa ta và địch, ta không nêu vấn đề đánh chiếm những nơi Nhật đóng quân. Còn tất cả các vị trí then chốt của chính quyền bù nhìn, tay sai thân Nhật, ta đã giành lại cả. Và điều quan trọng hơn hết là sau khi đã giành được chính quyền ở trong tay địch, tuy còn bỡ ngỡ chưa quen công việc, bộ máy thành phố đã vận hành được đều ngay: điện, nước vẫn đầy đủ; trật tự an ninh giữ vững không xảy ra việc gì; các đường xe, tàu, bưu điện liên lạc với các địa phương không bị gián đoạn… Trong những ngày đầu, chúng tôi hiểu thấm thía sự thật câu nói của Lê-nin: “Giành chính quyền đã khó, nhưng giữ chính quyền lại càng khó hơn”. Trong Ủy ban nhân dân cách mạng thành phố (thành lập ngay sau hôm giành chính quyền), anh em ai cũng có cảm giác bị đè ngập dưới một đống nặng vấn đề mà mình chưa quen, nhưng vẫn phải giải quyết cho kỳ được. Lại luôn luôn phải tiếp rất nhiều đại biểu các giới trong thành phố. Một đêm chỉ được vài giờ ngủ thiếp ngay trên bàn làm việc, trở dậy là lại bắt tay vào công việc. Nhưng lúc đó chính quyền cách mạng của ta làm được những công việc khó khăn, nặng nề ấy, chính là vì nó là một chính quyền của nhân dân, do tự tay nhân dân đứng lên giành lấy và đem hết công sức, tinh thần ra ủng hộ và bảo vệ.
Sau khi đã giành được chính quyền cũng như lúc còn sửa soạn nổi dậy khởi nghĩa, chúng tôi dám làm và đã làm được một công cuộc lớn lao trên sức mình như vậy, chính là do có sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng đứng đầu là Hồ Chủ tịch và luôn luôn thấy mình được dựa vào một lực lượng vô cùng mạnh mẽ. Đó là lực lượng quần chúng, đó là lực lượng của nhân dân ta mà tinh thần đoàn kết hy sinh chưa bao giờ lại lên cao như trong những ngày cách mạng ấy.
Triệu Chinh Hiểu