In bài viết

Một số vấn đề về chế định Hội thẩm nhân dân

(Chinhphu.vn) - Việc đảm bảo sự tham gia của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội nói chung và công tác xét xử của Tòa án nói riêng là yêu cầu quan trọng trong một nhà nước tiến bộ. Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu bài viết của Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Trương Hòa Bình về vấn đề này.

23/11/2012 16:09

Việc nhân dân tham gia hoạt động xét xử của Tòa án được thể hiện tập trung nhất thông qua chế định về Hội thẩm nhân dân

Ở các nước khác nhau, hình thức thể hiện việc nhân dân tham gia công tác xét xử của Tòa án cũng có sự khác nhau. Ở các nước theo hệ thống thông luật (án lệ), thì có chế định về Bồi thẩm đoàn; còn ở một số nước theo hệ thống pháp luật Châu âu lục địa, thì Hội đồng xét xử có thể bao gồm Thẩm phán chuyên nghiệp và Thẩm phán không chuyên nghiệp hoặc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

Ví dụ như ở Nhật Bản, khi xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm nghiêm trọng, thì Hội đồng xét xử bao gồm 3 Thẩm phán và 6 Hội thẩm nhân dân. Ở nước ta, việc nhân dân tham gia hoạt động xét xử của Tòa án được thể hiện tập trung nhất thông qua chế định về Hội thẩm nhân dân. Đây là một chế định được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp (từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992).

Bản thân chế định Hội thẩm là sự thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, thể hiện bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. 

1. Về địa vị pháp lý và vai trò của Hội Thẩm nhân dân trong công tác xét xử

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992(Điều 129) và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002(Điều 4) thì: “Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”. Như vậy, thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia là một nguyên tắc hiến định. Đồng thời, địa vị pháp lý của Hội thẩm được quy định cụ thể hơn trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, tại Điều 5 quy định:“Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính đều ghi nhận nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia và Hội thẩm được xác định là một trong những người tiến hành tố tụng tại Tòa án. Khi được phân công giải quyết vụ án thì Hội thẩm có các nhiệm vụ như: nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; tham gia xét xử các vụ án theo thủ tục sơ thẩm các loại vụ án (riêng đối với vụ án hình sự thì Hội thẩm có thể tham gia xét xử theo thủ tục phúc thẩm trong trường hợp cần thiết); tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình. Về số lượng Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử, pháp luật tố tụng quy định thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm: 1 Thẩm phán và 2 Hội thẩm; trong trường hợp vụ án có tính chất phức tạp, nghiêm trọng thì Hội đồng xét xử có thể gồm 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm. Về nguyên tắc xét xử, Điều 6 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định: “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số…”.

Với các quy định nêu trên thì Hội thẩm có địa vị pháp lý và vai trò rất quan trọng trong công tác xét xử, vì khi tham gia xét xử ở cấp sơ thẩm, Hội thẩm chiếm đa số trong Hội đồng xét xử (2/3 hoặc 3/5) và khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán khi ra các phán quyết về vụ án. Như vậy, khi xét xử nếu ý kiến biểu quyết của các Hội thẩm là giống nhau và khác với ý kiến của Thẩm phán thì quyết định của Hội đồng xét xử phải theo ý kiến của các Hội Thẩm (đa số), mặc dù là người xét xử có tính chất chuyên nghiệp thì Thẩm phán cũng chỉ có quyền bảo lưu ý kiến của mình và đề nghị Tòa án cấp trên xem xét.

Nhận thức rõ địa vị pháp lý và vai trò quan trọng của Hội thẩm trong công tác Tòa án, cũng như yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ Hội thẩm bảo đảm về tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu giải quyết, xét xử các loại vụ án, thời gian qua trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình, Tòa án Nhân dân Tối cao đã phối hợp với Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Nội vụ (thay mặt cho Chính phủ) ban hành nhiều văn bản liên quan tới công tác Hội thẩm, như: Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN ngày 01/3/2004 của Tòa án Nhân dân Tối cao và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn về việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án nhân dân; Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân (ban hành kèm theo Nghị quyết liên tịch số 05/2005/NQLT-TANDTC-BNV-UBTWMTTQVN ngày 05/12/2005 của Tòa án Nhân dân Tối cao, Bộ Nội vụ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt nam); Thông tư số 03/2009/TT-TANDTC ngày 05/3/2009 của Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn việc giới thiệu bầu và đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân huyện, quận không tổ chức Hội đồng nhân dân...

Với việc chủ động hoàn thiện về thể chế liên quan tới công tác Hội thẩm và tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này, tổ chức và hoạt động của Hội thẩm ngày càng ổn định và nề nếp. Các Hội thẩm đa số đều đảm bảo có trình độ hiểu biết pháp luật ở mức độ nhất định, nhiều người nguyên là cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật đã nghỉ hưu, một số người nhiều nhiệm kỳ tham gia công tác Hội thẩm, nên đã và đang có những đóng góp quan trọng cho công tác xét xử của các Tòa án.

2. Ý nghĩa của chế định Hội thẩm

Việc quy định chế định Hội thẩm trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng; cụ thể là:

- Thứ nhất, Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tham gia vào công tác xét xử của Tòa án chính là tham gia trực tiếp vào việc thực hiện quyền lực của nhà nước (quyền tư pháp).

- Thứ hai, Đưa tiếng nói từ phía xã hội vào quá trình xét xử, giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân.

Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Trương Hòa Bình: Chế định Hội thẩm thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”

Hội thẩm là những người sống và làm việc tại các cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, khu dân cư nên có kinh nghiệm trong hoạt động xã hội, có vốn kiến thức thực tế phong phú, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, vì vậy các vị Hội thẩm hiểu rõ tình hình, hoàn cảnh, nguyên nhân của các vụ án. Trong một số trường hợp, Hội thẩm nhân dân còn có kiến thức sâu về một số lĩnh vực như quản lý kinh tế, y học, tâm lý xã hội… Các kiến thức thực tiễn sinh động đó của đội ngũ Hội thẩm sẽ rất có ích trong việc bổ sung các kiến thức thực tiễn cho Thẩm phán về những lĩnh vực mà Thẩm phán không chuyên sâu, giúp cho công tác xét xử đúng đắn.

- Thứ ba, Tăng cường mối quan hệ giữa Tòa án và nhân dân

Thông qua Hội thẩm, công tác xét xử của Tòa án đến với nhân dân, nhân dân hiểu và thông cảm với công tác của Tòa án. Cũng thông qua Hội thẩm, Tòa án nắm bắt được những vướng mắc, suy nghĩ, tình cảm của nhân dân. Một phán quyết của Tòa án có thể nhận được sự đồng tình của nhân dân, nhưng cũng có thể bị phản ứng, thậm chí là phản ứng gay gắt của dư luận. Như vậy, công tác xét xử của Tòa án vừa góp phần nâng cao tinh thần tự giác, tôn trọng và bảo vệ pháp luật của nhân dân, lại vừa chịu sự giám sát của nhân dân.

- Thứ tư, Hội thẩm sẽ giúp Tòa án thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Là người trực tiếp tham gia quá trình giải quyết vụ án, Hội thẩm sẽ là những người giúp Tòa án tuyên truyền về kết quả xét xử; phân tích rõ cơ sở áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, từ đó góp phần vào việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật của công dân tại nơi Hội thẩm làm việc hoặc sinh sống.

3. Những bất cập của chế định Hội thẩm hiện hành và đề xuất kiến nghị

Mặc dù các quy định hiện nay của Hiến pháp, pháp luật liên quan đến Hội thẩm Tòa án nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, tạo điều kiện đảm bảo ngày càng tốt hơn cho sự tham gia của nhân dân trong hoạt động giải quyết, xét xử các loại vụ án. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác của các Tòa án, đặc biệt là qua phối hợp theo dõi việc quản lý tổ chức và hoạt động của Hội thẩm cũng cho thấy một số bất cập, cụ thể như sau:

- Về các quy định liên quan tới địa vị pháp lý, vai trò của Hội thẩm, Hiến pháp hiện hành mới chỉ quy định nguyên tắc về việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm tham gia và địa vị pháp lý của Hội thẩm khi xét xử là ngang quyền với Thẩm phán. Tuy nhiên, với tầm quan trọng của chế định này, cần ghi nhận thêm bản chất của chế định Hội thẩm trong Hiến pháp, đó chính là việc nhân dân tham gia vào thực hiện quyền lực nhà nước (quyền tư pháp). Theo đó, cần quy định trong Hiến pháp: “Hội thẩm là những công dân tiêu biểu, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công dân được bầu hoặc cử tham gia công tác xét xử của Tòa án”.

Liên quan tới số lượng và quyền hạn của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử, qua nghiên cứu cho thấy hiện còn có nhiều quan điểm khác nhau:

Có quan điểm cho rằng, việc quy định về số lượng Hội thẩm và quyền hạn của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử như hiện nay là phù hợp. Vấn đề cơ bản là phải có cơ chế để lựa chọn những người hiểu biết pháp luật, có kiến thức xã hội phong phú, thực sự đại diện cho tiếng nói của nhân dân để bầu làm Hội thẩm Tòa án; đồng thời cần quan tâm làm tốt công tác bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm, đáp ứng yêu cầu công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án.

Để đảm bảo đúng bản chất của chế định Hội thẩm, có ý kiến lại cho rằng cần quy định số lượng Hội thẩm trong Hội đồng xét xử nhiều hơn như hiện nay vì như vậy mới đảm bảo huy động rộng rãi ý kiến của nhân dân trong các lĩnh vực, địa bàn đối với công tác xét xử của Tòa án.

 Quan điểm khác cho rằng, công tác xét xử là một lĩnh vực liên quan tới các quyền rất quan trọng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội, do đó Hội đồng xét xử phải đảm bảo tính chuyên nghiệp cao, vì vậy cần quy định tỷ lệ Thẩm phán cao hơn Hội thẩm trong Hội đồng xét xử.

Ngoài ra cũng có ý kiến thấy rằng cần nghiên cứu chế định về Bồi thẩm đoàn như các nước theo hệ thống thông luật hoặc chỉ nên quy định việc Hội thẩm tham gia trong công tác xét xử chỉ có ý nghĩa tham vấn.

Theo chúng tôi, quan điểm thứ nhất và thứ hai là các quan điểm tương đối phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay và mang tính truyền thống, trong đó quan điểm thứ hai thể hiện tính ưu việt hơn.

- Về lựa chọn nhân sự để bầu hoặc cử làm Hội thẩm: Hội thẩm là người đại diện cho các tầng lớp nhân dân tham gia công tác xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, phần lớn những người được Mặt trận Tổ quốc giới thiệu để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm là cán bộ công chức, viên chức của các cơ quan nhà nước hiện đang công tác hoặc đã nghỉ hưu, nên chưa thực sự đại diện đầy đủ cho tính nhân dân của chức danh này. Do đó, trong việc lựa chọn nhân sự để bầu làm Hội thẩm cần lựa chọn những người có uy tín, kiến thức và hiểu biết trên các lĩnh vực đời sống xã hội, các khu vực dân cư khác nhau, thì mới đảm bảo đúng ý nghĩa của chế định này. Theo phương án này, có thể tăng thêm số lượng Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử sơ thẩm.

- Về việc bảo đảm trình độ của Hội thẩm đáp ứng yêu cầu xét xử: Theo quy định của pháp luật thì người được bầu làm Hội thẩm chỉ cần có kiến thức pháp lý mà không quy định một tiêu chuẩn tối thiểu, trong khi đó, cùng tham gia xét xử với họ là những Thẩm phán có trình độ cử nhân luật, được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử. Mặt khác, Hội Thẩm gần như không phải chịu bất kỳ trách nhiệm hành chính nào liên quan đến chất lượng xét xử, nên mặc dù chiếm đa số trong Hội đồng xét xử và các phán quyết của Hội đồng xét xử được quyết định theo đa số, nhưng trên thực tế không tránh khỏi khi xét xử các Hội thẩm bị phụ thuộc vào ý kiến của Thẩm phán.

Xử lý vấn đề này, cần sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chuẩn Hội thẩm theo hướng quy định người được bầu hoặc cử làm Hội thẩm cần phải có trình độ pháp lý nhất định, ví dụ tối thiểu phải có bằng trung cấp pháp lý hoặc ít nhất phải qua một lớp bồi dưỡng về pháp luật từ 3-6 tháng. Trong khi chưa sửa đổi được các quy định của pháp luật thì các cơ quan có liên quan cần phối hợp tốt hơn với Tòa án trong công tác tập huấn, bồi dưỡng cho Hội thẩm, theo đó HĐND xem xét hỗ trợ thêm kinh phí cho Tòa án tổ chức nhiều hơn các lớp tập huấn cho Hội thẩm, đặc biệt là tập huấn các văn bản pháp luật hoặc văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật mới; tổ chức rút kinh nghiệm trong xét xử một số loại vụ án đặc thù...

- Về tạo điều kiện cho Hội thẩm hoạt động: Hiện nay, ngoài chế độ về trang phục, Hội thẩm chỉ có chế độ bồi dưỡng phiên tòa với mức 50.000đồng/ngày nghiên cứu hồ sơ hoặc xét xử (vừa qua, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành Quyết định số 41/2012/QĐ-TTg ngày 05/10/2012, có hiệu lực từ ngày 01/01/2013, theo đó chế độ bồi dưỡng cho Hội thẩm được tăng lên 90.000 đồng/ngày). Trong khi đó, khi tham gia xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nhưng một số chế độ của Thẩm phán như: phụ cấp công vụ, phụ cấp trách nhiệm nghề thì Hội thẩm lại không được hưởng là bất hợp lý. Vì vậy để bảo đảm công bằng và khuyến khích Hội thẩm tích cực tham gia công tác xét xử, đề nghị cần áp dụng các chế độ này cho Hội thẩm.

- Về quản lý, đánh giá, giám sát đối với Hội thẩm: Theo quy định hiện nay, Tòa án chỉ quản lý Hội thẩm trong thời gian họ nghiên cứu hồ sơ và tham gia xét xử. Ngoài thời gian đó thì họ sinh hoạt tại cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc địa phương nơi họ sinh sống. Hiện nay, mặc dù các địa phương có thành lập Đoàn Hội thẩm, nhưng chỉ mang tính chất tự nguyện để các Hội thẩm nhóm họp, trao đổi các vấn đề về công tác hoặc giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Trong khi đó, xét xử các loại vụ án là lĩnh vực nhạy cảm dễ bị sức ép, tác động và rất dễ phát sinh tiêu cực. Do đó, Hội đồng nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp cần xây dựng quy chế phối hợp và thực hiện tốt hơn việc quản lý, giám sát đối với Hội thẩm từ việc thực thi nhiệm vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức đến việc tạo điều kiện thuận lợi để họ được bố trí thời gian hợp lý tham gia công tác tại Tòa án, cũng như bảo đảm các biện pháp bảo vệ Hội thẩm và gia đình họ trong những trường hợp cần thiết.