Tại phiên họp thứ 27 diễn ra vào sáng 12/10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) thực hiện giám sát chuyên đề "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021".
Ngày 4/8/2022 và ngày 29/8/2022, UBTVQH đã ban hành các Nghị quyết số 23/2022/UBTVQH15 về Chương trình giám sát của UBTVQH năm 2023 và số 582/NQ-UBTVQH15 về thành lập Đoàn giám sát "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021" nhằm đánh giá khách quan, trung thực, đầy đủ và toàn diện việc Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan liên quan thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021 và các giai đoạn trước, sau có liên quan, làm rõ những hạn chế, bất cập, nguyên nhân khách quan, chủ quan, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng, góp phần bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, làm tiền đề quan trọng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh.
Báo cáo kết quả giám sát "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021" do Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy, Phó Trưởng đoàn Thường trực đoàn giám sát trình bày cho biết, trong giai đoạn 2016-2021, Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành 4 nghị quyết, 2 kết luận nhằm định hướng phát triển ngành năng lượng, đáp ứng đồng bộ các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội-môi trường, quốc phòng-an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế.
Để thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, các cơ quan Nhà nước ở Trung ương đã ban hành 499 văn bản quy phạm pháp luật. HĐND, UBND cấp tỉnh đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, chương trình, kế hoạch, đề án, nhiệm vụ triển khai trên địa bàn. Công tác thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng được triển khai khá kịp thời. Pháp luật ngành năng lượng từng bước được hoàn thiện, tiến độ công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngành năng lượng được đẩy nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thực tiễn. Công tác quy hoạch đã được quan tâm, chú trọng, đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia và quy hoạch phát triển các phân ngành năng lượng than, điện, khí, xăng dầu. Việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về cơ bản tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định.
Việc hoàn thiện hành lang pháp lý về phát triển năng lượng đã góp phần quan trọng bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng-an ninh, nhu cầu sinh hoạt, sản xuất của nhân dân, tạo tiền đề quan trọng để phát triển các ngành, lĩnh vực khác; bảo tồn, phát triển, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn năng lượng; bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, thu hút nguồn lực đầu tư; chuyển đổi năng lượng công bằng; tích hợp, đồng bộ với nhiệm vụ bảo vệ môi trường, thúc đẩy tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải, ứng phó biến đổi khí hậu và phát triển bền vững; đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong từng thời kỳ.
Ngành điện trong giai đoạn 2016-2021 đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Việc triển khai quy hoạch các phân ngành năng lượng, nhất là Quy hoạch điện VII, Quy hoạch điện VII điều chỉnh đã đạt được kết quả nhất định. Quy hoạch điện VIII tuy mới được phê duyệt nhưng đã được chú trọng, nỗ lực triển khai kịp thời. Sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống hàng năm đều tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, đảm bảo cung cấp điện cơ bản đầy đủ; hệ thống điện vận hành an toàn, ổn định.
Ngành dầu khí đã cơ bản hoàn thành mục tiêu chiến lược đề ra, vẫn giữ vững là ngành kinh tế-kỹ thuật quan trọng. Trong đó, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) có vai trò nòng cốt, đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Ngành dầu khí đã hoàn chỉnh chuỗi giá trị, từ khâu tìm kiếm, thăm dò đến khâu khai thác, chế biến và dịch vụ dầu khí chất lượng cao; tăng cường huy động các nguồn lực đầu tư phát triển ngành. Chất lượng xăng dầu ngày càng được nâng cao, số lượng trạm xăng dầu gia tăng nhanh chóng, nhất là tại các tuyến đường cao tốc, vùng nông thôn, đô thị mới, đáp ứng yêu cầu phát triển.
Ngành than đã thực hiện tốt mục tiêu đảm bảo đáp ứng đủ than cho nhu cầu sử dụng trong nước, đặc biệt là than cho sản xuất điện, góp phần đảm bảo năng lượng quốc gia.
Tiêu thụ năng lượng gia tăng đáng kể, cơ cấu tiêu thụ năng lượng chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả ngày càng được quan tâm; chuyển dịch năng lượng theo hướng công bằng, bền vững đã được chú trọng nhằm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về biến đổi khí hậu.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đang tích cực triển khai kế hoạch, lộ trình chuyển đổi năng lượng theo cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Trong đó, đã tích hợp các nội dung liên quan vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, đặc biệt là vào các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia và Quy hoạch điện VIII.
Ngành năng lượng cũng đã tích cực thực hiện công tác an sinh xã hội, chương trình năng lượng nông thôn, miền núi, hải đảo và nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Từ thực tế thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng vừa qua, nhiều bài học kinh nghiệm đã được rút ra.
Cụ thể là, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, nhất quán của Đảng, Quốc hội đã thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Chính phủ và các cấp, các ngành đã tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách, pháp luật.
Cần chú trọng và nâng cao chất lượng công tác xây dựng thể chế; tăng cường công tác quản lý nhà nước trong phát triển năng lượng; đẩy mạnh công tác giám sát, kiểm toán, thanh tra, kiểm tra đối với các dự án năng lượng, các tập đoàn kinh tế; xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với các dự án đầu tư chậm triển khai, có sai phạm.
Lấy khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao làm nhân tố đột phá. Có các cơ chế đặc thù huy động các nguồn lực trong và ngoài nước. Quan tâm đúng mức đến công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng.
Quan tâm nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của năng lượng trong quá trình phát triển bền vững đất nước, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phát triển năng lượng cho các tầng lớp nhân dân.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy nhấn mạnh, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng rất lớn về các nguồn năng lượng, nhất là năng lượng tái tạo. Dự báo thời gian tới, nền kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng nhanh dẫn đến nhu cầu năng lượng tiếp tục tăng lên nhanh chóng, trong khi thị trường thế giới về nguyên, nhiên liệu sơ cấp, đầu vào của sản xuất vẫn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn, tình hình thiên tai, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, khó lường.
Nguồn cung năng lượng của thế giới hiện vẫn đang chủ yếu dựa vào nhiên liệu hóa thạch, nhưng xu hướng toàn cầu chuyển đổi sang sử dụng năng lượng sạch, xanh, bảo đảm công bằng, bền vững là tất yếu, với tỷ trọng năng lượng tái tạo đang tăng nhanh nhờ sự thay đổi công nghệ và giảm chi phí đáng kể và hướng tới phát thải ròng bằng 0 theo các cam kết quốc tế.
Quá trình chuyển đổi năng lượng ở nước ta đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn, thay đổi tư duy, phương thức quản trị, đổi mới công nghệ, trong khi quy mô nền kinh tế nước ta còn khiêm tốn, thị trường năng lượng trong nước ngày càng phụ thuộc vào thị trường năng lượng thế giới. Tình hình trên đây tiếp tục ảnh hưởng và đặt ra nhiều thách thức đối với nước ta trong phát triển năng lượng, nhất là bảo đảm an ninh năng lượng trước mắt và lâu dài.
Để phát huy kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập, thích ứng kịp thời với bối cảnh trong giai đoạn mới, Đoàn giám sát kiến nghị UBTVQH ban hành Nghị quyết giám sát chuyên đề việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021.
Nguyễn Hoàng