Theo phản ánh của các phóng viên báo chí, từ rất sớm, các thí sinh đã đến địa điểm thi với tâm lý khá thoải mái.
Tại mỗi điểm thi, sinh viên tình nguyện cùng lực lượng an ninh hướng dẫn các em gửi đồ, nhắc nhở không mang những vật dụng không liên quan đến kỳ thi, không mang các tín hiệu truyền tin, túi xách vào phòng thi, tránh vi phạm quy chế thi.
Với môn Ngữ văn (môn thi bắt buộc thứ 3, sau môn Toán và Ngoại ngữ), nhiều thí sinh dự đoán đề thi Ngữ văn có thể liên quan đến các vấn đề thời sự như Biển Đông, Tổng thống Mỹ thăm Việt Nam...
Các thí sinh bắt đầu làm bài thi Ngữ văn từ 7h30' (thời gian làm bài 180 phút).
Buổi chiều, các em thi môn Vật lí (từ 14h30', thời gian làm bài 90 phút).
Đề thi môn Ngữ văn:
a |
Đáp án gợi ý môn thi Ngữ văn (nguồn: Báo Giáo dục và Thời đại/Dân trí):
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu từ 1 đến 4.
1. Ở khổ 1, sự mượt mà và tinh tế của tiếng Việt được thể hiện ở những từ ngữ sau: như lụa; mềm mại như tơ; óng tre ngà
2. Trong khổ 2 và 3, hai biện pháp tu từ được tác giả sử dụng là so sánh (tiếng tha thiết nói thường nghe như hát) và ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối)
3. Nội dung chính của đoạn trích là những phát hiện sâu sắc mới mẻ, độc đáo của tác giả về đặc điểm và khả năng biểu đạt của Tiếng Việt: tiếng nói có trước, chữ viết có sau, tiếng Việt giàu thanh điệu và giàu nhạc tính, có khả năng gợi hình và biểu cảm cao, vừa cứng cáp, bình dị, vừa mềm mại, uyển chuyển. Tác giả cũng bộc lộ tình cảm thiết tha yêu quý, tự hào về ngôn ngữ và tiếng nói của dân tộc.
4. Thí sinh có thể trình bày cảm nghĩ của mình về tiếng Việt theo gợi ý sau:
- Tiếng Việt không chỉ là công cụ giao tiếp phổ biến hàng ngày của người Việt mà còn là một phần bản sắc văn hóa của dân tộc.
- Mỗi người dân Việt đều hãnh diện về tiêng nói của mình, đều cần ra sức làm phong phú khả năng diễn tả của tiếng việt và giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt
Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu từ 5 đến 8
5. Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
6. “Giống như một mảnh vườn được chăm sóc cẩn thận đầy hoa thơm sạch sẽ và gọn gàng”.
7. Lý do: Khi không thoát ra khỏi tuyệt đối cá nhân, không bộc lộ ra khỏi bản thân, mỗi người sẽ chỉ sống trong cái tôi cá nhân ích kỉ, nhỏ bé của mình. Sự tồn tại như thế không có ý nghĩa gì đối với bản thân cũng như đối với cộng đồng nên là cuộc sống không có gì đáng thèm muốn.
8. Thí sinh có thể trình bày suy nghĩ riêng của mình theo gợi ý sau:
Cuộc sống của những con người thoát ra khỏi cái tuyệt đối cá nhân là cuộc sống của những người cao quý, biết gắn bó với cộng đồng, biết cống hiến vì cuộc sống chung của cộng đồng, nhân dân và đất nước. Chỉ khi biết sống cống hiến, sống vì người khác thì cuộc sống của mỗi cá nhân mới trở nên có giá trị, có ý nghĩa và là cuộc sống cao đẹp.
(Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình! – Tố Hữu)
II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (3,0 điểm)
a. Bảo đảm cấu trúc bài nghị luận
Có đủ các phần mở bài, thân bài và kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Sự hèn nhát khiến con người tự đánh mất mình, còn dũng khí lại giúp họ được là chính mình.
* Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm, vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lý lẽ và dẫn chứng; rút ra bài học nhận thức và hành động
* Từ việc giải thích khái niệm hèn nhát và dũng khí, thí sinh nêu khái quát nội dung ý kiến.
* Bàn luận:
Khẳng định ý kiến nêu ra là đúng hay sai, hợp lý hay không hợp lý.
Bày tỏ thái độ, suy nghĩ về ý kiến bằng những lý lẽ, dẫn chứng phù hợp, có sức thuyết phục.
Bài học nhận thức và hành động : Rút ra bài học phù hợp cho bản thân.
* Sáng tạo
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
Chính tả, dùng từ, đặt câu: Bảo đảm quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Câu 2 (4,0 điểm)
1. Mở bài:
- Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm
- Khẳng định thành công nổi bật của tác phẩm là ở việc xây dựng tình huống truyện - Trích dẫn ý kiến
2. Thân bài:
a. Giải thích ý kiến
- Tình huống truyện: Tình huống có vấn đề, thông qua tình huống đó các nhân vật được bộc lộ…
- Tình huống bất thường: Là tình huống trái khoáy, éo le, trái với quy luật thông thường của đời sống, ngược với cách cảm, cách nghĩ thông thường của con người…
- Khát vọng bình thường và chính đáng: Là khát vọng bình dị, giản đơn, muôn đời mà con người ai cũng có và cần có. Đó là khát vọng được sống, được hạnh phúc, được yêu thương…
b. Bàn luận ý kiến:
* Truyện “Vợ nhặt” đã xây dựng được tình huống bất thường
- Khái quát về tình huống “nhặt vợ” của Tràng - Phân tích, chứng minh tính bất thường của tình huống:
Việc dựng vợ gả chồng là việc thiêng liêng, không ai lại đi “nhặt” vợ
Việc “nhặt” vợ đó diễn ra giữa những đói khát, tăm tối
Người “nhặt” vợ là một anh chàng xấu xí, nghèo, dân ngụ cư, dở tính…
* Tình huống đó đã nói lên những khát vọng bình thương mà chính đáng
- Thông qua tình huống ta thấy được khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người mà cụ thể là ở Tràng, Thị và bà cụ Tứ
Thị theo không Tràng trước hết là để được có chỗ nương tựa, vượt qua những ngày đói, nhưng đó chỉ là động cơ bên ngoài. Cái chủ yếu, thôi thúc bên trong phải là khát khao hạnh phúc, khát khao về một mái ấm…(vì thế thị đã thay đổi sau khi nhận lời Tràng)
Hành động nhặt vợ của Tràng tưởng chừng là hành động liều lĩnh nhưng thực chất nó cũng xuất phát từ khát vọng muốn được cưu mang, muốn có một mái ấm…
Cũng thông qua tình huống truyện, người đọc hiểu thêm về tấm lòng của bà cụ Tứ - người mẹ nghèo. Đó là lòng thương con, là khát khao, mong muốn cuộc đời của các con sẽ đỡ khổ..
* Đánh giá:
- Ý kiến đã đánh giá đúng ý nghĩa của tình huống nói riêng và giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm nói chung.
- Thông qua tình huống, ta cảm nhận được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm đồng thời nó cũng thể hiện được tình cảm thương yêu, niềm tin, sự cảm thông của tác giả dành cho những con người nghèo khổ.
3. Kết bài : Khẳng định lại vấn đề./.