Ông Kỳ làm việc ở Công ty vật tư Dầu khí từ năm 1971 đến năm 1986. Từ năm 1986 đến năm 1989, Tổng cục Dầu khí cử ông đi thực tập về lọc hóa dầu tại Tiệp Khắc.
Từ năm 1989 đến năm 1998, ông đi thực tập về và được nghỉ chờ việc, hưởng 70% lương. Từ năm 1998 đến nay, ông Kỳ làm việc ở Tổng công ty DMC Tập đoàn Dầu khí quốc gia.
Ông Kỳ muốn được biết việc trả lương chờ việc của người sử dụng lao động như trên có đúng theo quy định không? Bảo hiểm xã hội (BHXH) được tính như thế nào khi ông nghỉ hưu?
Thắc mắc của ông Kỳ được Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội giải đáp như sau:
Chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1998 được thực hiện theo quy định của Nghị định số 235/HĐBT ngày 18/9/1985 và Nghị định số 26-CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ về quy định tạm thời chế độ tiền lương mới.
Chế độ BHXH trong giai đoạn này được quy định tại Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước ban hành kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 của Hội đồng Chính phủ và Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm trích nộp, đóng BHXH
Theo quy định tại Điều 68 Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 thì hàng tháng, cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường phải trích nộp cho quỹ BHXH một số tiền bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng quỹ tiền lương của công nhân, viên chức. Tỷ lệ này do Hội đồng Chính phủ ấn định.
Cũng tại Điều 10 Nghị định số 26-CP ngày 23/5/1993 quy định, người lao động và chủ doanh nghiệp có nghĩa vụ đóng BHXH, bảo hiểm y tế theo qui định của Nhà nước.
Thời gian sau đó, tại Điều 37 Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 quy định, hàng tháng, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH theo quy định và trích từ tiền lương của từng người lao động theo quy định để đóng cùng một lúc vào quỹ BHXH. Tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH gồm lương theo ngạch bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp khu vực đắt đỏ, chức vụ, thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có).
Thời gian làm việc trong khu vực Nhà nước trước 1/1/1995 được tính là đã đóng BHXH
Tại Khoản 1, Khoản 4 Điều 139 Luật BHXH năm 2006 quy định:
- Các quy định của Luật này được áp dụng đối với người đã tham gia BHXH từ trước ngày Luật này có hiệu lực (1/1/2007).
- Người lao động có thời gian làm việc trong khu vực nhà nước trước ngày 1/1/1995 nếu chưa nhận trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp một lần, trợ cấp xuất ngũ, phục viên thì thời gian đó được tính là thời gian đã đóng BHXH.
Trường hợp ông Sái Công Kỳ, do doanh nghiệp không bố trí được việc làm nên từ năm 1989 đến năm 1998 đã cho ông nghỉ chờ việc hưởng 70% lương, là phù hợp với chính sách lao động, tiền lương thời kỳ đó.
Nếu đúng như ông trình bày thì năm 1989 sau khi đi thực tập ở nước ngoài về, ông phải có quyết định tiếp nhận của cơ quan, có tên trong danh sách cán bộ công nhân viên của đơn vị. Bảng thanh toán tiền lương hàng tháng phải có ghi tên ông và chữ ký nhận tiền lương của ông. Theo đó, thời gian ông nghỉ chờ việc hưởng 70% lương cơ quan phải trích nộp BHXH cho ông.
Nếu ông Kỳ có đủ giấy tờ hợp pháp chứng minh thời gian làm việc trong khu vực nhà nước trước ngày 1/1/1995 (kể cả thời gian nghỉ chờ việc hưởng 70% lương) và thời gian đó ông chưa nhận trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp một lần, trợ cấp xuất ngũ, phục viên thì thời gian đó được tính là thời gian đã đóng BHXH. Tổng thời gian đóng BHXH, mức đóng BHXH và tuổi đời là các căn cứ để hưởng chế độ hưu trí.
Luật sư Trần Văn Toàn
VPLS Khánh Hưng – Đoàn Luật sư Hà Nội
* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.