Theo phản ánh của ông Trần Tuấn Anh (Đắk Lắk) Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 quy định:
“Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất nhưng đã phân phối (cấp) trái thẩm quyền cho hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của tổ chức làm nhà ở trước ngày 15/10/1993, khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân thì thu tiền sử dụng đất bằng 40% theo giá đất do UBND cấp tỉnh quy định như trường hợp bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê theo Nghị định số 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ đối với diện tích trong hạn mức giao đất ở; thu bằng 100% theo giá đất ở do UBND cấp tỉnh quyết định phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích vượt hạn mức giao đất ở”.
Ông Tuấn Anh hỏi, nội dung trên có quy định cho những đối tượng được cơ quan cấp đất có kèm theo nhà ở được xây bằng ngân sách Nhà nước theo Nghị định số 61/CP của Chính phủ không? Quy định nêu trên có trái với Khoản 6, Khoản 7 Điều 50 Luật Đất đai 2003 hay không?
Cục Thuế tỉnh Đắk Lắk trả lời vấn đề này như sau:
Theo Điều 2 Nghị định số 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở:
“Điều 2. Mua bán và kinh doanh nhà ở quy định trong Nghị định này bao gồm các hình thức sau:
1. Bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê;
2. Kinh doanh nhà ở;
3. Mua bán nhà ở không nhằm mục đích kinh doanh.”
Tại Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất:
“4. Bổ sung Khoản 4 và Khoản 5 vào Điều 8 về thu tiền sử dụng đất khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất như sau:
"4. Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất nhưng đã phân phối (cấp) trái thẩm quyền cho hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của tổ chức làm nhà ở trước ngày 15/10/1993, khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân thì thu tiền sử dụng đất bằng 40% theo giá đất do UBND cấp tỉnh quy định như trường hợp bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê theo Nghị định số 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ đối với diện tích trong hạn mức giao đất ở; thu bằng 100% theo giá đất ở do UBND cấp tỉnh quyết định phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích vượt hạn mức giao đất ở".
Tại Khoản 1, Khoản 6, Khoản 7 Điều 50 Luật số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội về đất đai quy định:
“Điều 50. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993, nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15/10/1993;
đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
... 6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại Khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.
7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Căn cứ các quy định trên, Nghị định số 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở quy định đối tượng áp dụng như sau:
- Bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê;
- Kinh doanh nhà ở;
- Mua bán nhà ở không nhằm mục đích kinh doanh.
Các trường hợp khác như: Nhà nước giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất, đất đang sử dụng không có giấy tờ… (đối tượng nộp tiền sử dụng đất quy định tại Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010) không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 61/CP.
Như vậy, các đối tượng không quy định tại Điều 1 Nghị định số 61/CP thì phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại Nghị định số 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất.
Trường hợp phải nộp tiền sử dụng đất
Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất đã phân phối (cấp) trái thẩm quyền cho hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của tổ chức làm nhà ở trước ngày 15/10/1993 phải nộp tiền sử dụng đất theo Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 120/2010/NĐ-CP nêu trên.
Trường hợp của ông Trần Tuấn Anh hỏi phải nộp tiền sử dụng đất theo Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 120/2010/NĐ-CP.
Chính phủ căn cứ Luật Đất đai số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội để ban hành Nghị định số 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất.
Tại Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 120/2010/NĐ-CP quy định tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất nhưng đã phân phối (cấp) trái thẩm quyền cho hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của tổ chức làm nhà ở trước ngày 15/10/1993,…
Tại Khoản 6, Khoản 7 Điều 50 Luật số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội về đất đai như sau:
- Khoản 6 quy định: Hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại Khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15/10/1993…
- Khoản 7 quy định: Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Như vậy, quy định tại Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 của Chính phủ không trái với Khoản 6, Khoản 7 Điều 50 Luật Đất đai số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội (vì quy định các đối tượng sử dụng đất khác nhau).
Tuy nhiên, đến nay Nghị định số 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 và Nghị định số 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ đã hết hiệu lực thi hành (Nghị định 120/2010/NĐ-CP đã hết hiệu lực ngày 1/7/2014, Nghị định số 61/CP đã hết hiệu lực ngày 6/6/2013).