In bài viết

Nguyên nhân kéo dài vụ tranh chấp quyền sử dụng đất tại Chơn Thành (Bình Phước): Không có căn cứ vẫn khởi kiện ?

Báo Tài nguyên và Môi trường đã phản ánh vụ bà Nguyễn Ngọc Thạch, ở thị trấn Chơn Thành, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, đột nhiên trở thành bị đơn trong vụ kiện "đòi chia tài sản thừa kế 6,93 ha đất và vườn cao su". Qua hai lần xử phúc thẩm, tòa kết luận nguyên đơn khởi kiện không có căn cứ, nhưng đến nay vụ việc vẫn chưa thể kết thúc. Dư luận đặt câu hỏi: Phải chăng đằng sau vụ án này còn có điều gì khuất tất?

26/04/2011 15:17

Báo Tài nguyên và Môi trường đã phản ánh vụ bà Nguyễn Ngọc Thạch, ở thị trấn Chơn Thành, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, đột nhiên trở thành bị đơn trong vụ kiện "đòi chia tài sản thừa kế 6,93 ha đất và vườn cao su". Qua hai lần xử phúc thẩm, tòa kết luận nguyên đơn khởi kiện không có căn cứ, nhưng đến nay vụ việc vẫn chưa thể kết thúc. Dư luận đặt câu hỏi: Phải chăng đằng sau vụ án này còn có điều gì khuất tất?

Nhập nhèm chứng cứ

Trong quá trình bà Thạch xin hợp thức hóa quyền sử dụng đất của mình thì bà Lê Thị Thúy Liên (con riêng của bà Nguyễn Thị Năm - người vợ kế, không hôn thú của ông Phan Út), với tư cách được ông Phan Thành Đạt (con trai của ông Út với bà Năm) ủy quyền và là giám hộ của bà Năm có đơn khiếu kiện đòi chia tài sản thừa kế 6,93 ha đất và vườn cao su mà ông Út đã cho bà Thạch.

Ngày 7/3/2008, Tòa Phúc thẩm TANDTC tại TP.HCM xử phúc thẩm lần 2 và có Bản án số 70/2008/DS-PT, tuyên bà Thạch được quyền sử dụng đất, nhà, cây cao su theo hiện trạng; bác kháng cáo của bà Liên, ông Đạt. Nhưng đến ngày 1/3/2011, TANDTC ra Quyết định kháng nghị số 120/2011/KN-DS, nêu việc nguyên đơn xuất trình "Giấy hứa bán" ngày 11/10/1994 có nội dung ông Út hứa bán vườn đất cao su cho bà Thạch với giá 280 triệu đồng. Bà Thạch hứa trả 180 triệu đồng vào ngày 31/12/1994, nếu không trả thì giấy hứa bán không còn giá trị; giấy "Gia hạn giấy hứa bán ngày 11/10/1994" viết ngày 16/11/1995 thể hiện ông Út bán cho bà Thạch, bà Thạch đã trả 60 triệu đồng…

Tuy nhiên, theo Bản án phúc thẩm số 70/2008/DS-PT: "Nguyên đơn xuất trình giấy gia hạn hứa bán lập ngày 16/11/1994 (BL 406) nhưng con số "4" được chữa thành con số "5" chữa sau photô. Tòa hỏi tiếp thì nguyên đơn không xuất trình được giấy hứa bán nào đề ngày 16/11/1995 (mà cấp sơ thẩm đã lấy làm chứng cứ). Việc đánh lùi ngày 16/11/1994 thành ngày 16/11/1995 là vi phạm về đánh giá chứng cứ. Tài liệu hồ sơ không có giấy gia hạn hứa bán nào đề ngày 16/11/1995".

Mạo danh người bị liệt não

Kết quả xác minh từ nhiều năm trước của Thanh tra tỉnh Bình Phước còn thể hiện nhiều hành vi sai trái của nguyên đơn, dẫn đến vụ kiện phức tạp kéo dài. Cụ thể: Trong Biên bản ngày 12/08/1997, Thanh tra tỉnh Bình Phước ghi rõ: Bà Liên (con riêng của bà Năm) không có giấy tờ gì liên quan đến vườn cây của ông Út tại thị trấn Chơn Thành. Theo biên bản ngày 06/12/1997 của Thanh tra tỉnh Bình Phước, ông Phan Thành Đạt (con của ông Út với bà Năm) thừa nhận: "Ông Út cho bà Thạch vườn cây cao sukhi còn khỏe mạnh, bà Năm có biết và đồng ý, ông Út đã làm giấy ủy quyền cho bà Thạch. Hơn nữa, vườn cao su tại Chơn Thành là tài sản riêng của ông Út, ông Út mua đất này trước khi lấy bà Năm. Ông Đạt khẳng định rằng ông Út đã cho đứt vườn cây cao su cho bà Thạch và ông Đạt là con trai duy nhất của ông Út không có ý kiến gì". Ý kiến này của ông Đạt còn được ghi rất rõ trong Tờ cam đoan do chính ông Đạt lập ngày 29/4/1997 tại Phòng Công chứng Nhà nước số 1 tỉnh Bình Phước: "Nay vì sức yếu của mẹ tôi (bệnh tâm thần). Tôi thay mặt cho mẹ tôi và tôi làm tờ cam đoan này cho cô Nguyễn Ngọc Thạch được sở hữu vườn cây cao su và quyền sử dụng đất của gia đình tôi". Vì vậy, ông Đạt không có căn cứ để khởi kiện đòi tài sản của cha mình!.

Bà Thạch đã sử dụng 6,93 ha đất cao su và sở hữu nhà trên đất liên tục trên 45 năm nay, đóng thuế đầy đủ, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mới đây, khi toàn bộ diện tích đất cao su này bị thu hồi để phục vụ dự án Khu thương mại, dịch vụ đô thị Chơn Thành; ngày 29/11/2010, Thường trực Tỉnh ủy Bình Phước đã có Thông báo kết luận: "Bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho bà Thạch"!

Tại báo cáo số 32/BC-TTr ngày 19/12/1997, Chánh Thanh tra tỉnh Bình Phước khẳng định: Trong thời gian xác minh vụ việc, Thanh tra tỉnh nhận được đơn xin cản trở việc hợp thức hóa vườn cây cao su do UBND tỉnh chuyển xuống, đứng tên bà Nguyễn Thị Năm địa chỉ khu 7 thôn Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đề nghị can thiệp với lý do tài sản này đang có tranh chấp. Nhưng theo biên bản xác minh của Thanh tra tỉnh Bình Phước, ngay từ năm 1992 bà Năm đã bị tai biến mạch máu não và mắc bệnh tâm thần ngay sau đó. Đơn xin cản trở được chuyển xuống từ UBND tỉnh này theo kết quả xác minh của Thanh tra tỉnh Bình Phước là do chính bà Liên viết theo ý của bà Liên rồi ấn tay điểm chỉ tay của bà Năm vào đơn(?). Dư luận đặt câu hỏi: Tại sao hành động sai trái này của bà Liên lại không bị xử lý?.

Không phải là tài sản chung

Quyết định kháng nghị của TANDTC nhận định: Ông Út chung sống với bà Năm từ năm 1970, đã có con chung là Phan Thành Đạt, nên được coi là hôn nhân thực tế. Theo Luật Hôn nhân gia đình năm 1959, tài sản riêng của ông Út, dù được tạo lập từ trước khi chung sống với bà Năm vẫn là tài sản chung. Vì vậy, việc ông Út làm giấy ủy quyền cho bà Thạch đất vườn cao su là xâm phạm đến quyền về tài sản chung của bà Năm.

Qua nghiên cứu hồ sơ, chúng tôi nhận thấy: Nếu ông Út chỉ lập duy nhất giấy ủy quyền cho bà Thạch được sử dụng, sang nhượng các lô cao su của ông Út vào ngày 10/8/1980, thì việc áp dụng Luật Hôn nhân gia đình năm 1959 là hoàn toàn đúng, vì thời điểm đó Luật quy định tài sản riêng của vợ hoặc chồng được tạo lập trước khi hôn nhân đều được coi là tài sản chung.

Tuy nhiên cần lưu ý: Vào các ngày 7/9/1990, 22/5/1995 và 6/11/1995, ông Út đã lần lượt lập tiếp 3 giấy ủy quyền cùng 1 nội dung thống nhất: "Cho bà Thạch được trọn quyền sử dụng đất và cây cao su trên đất của mình. Bà Thạch được quyền đăng ký sử dụng đất, được quyền sang nhượng hay hợp đồng làm ăn…". Các giấy ủy quyền này đều được công chứng Nhà nước và chính quyền chứng thực.

Với 3 lần ủy quyền sau ngày 10/8/1980, đặc biệt là lần cuối cùng ngày 6/11/1995 - đây là thời điểm Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã có hiệu lực và thay thế Luật Hôn nhân gia đình năm 1959. Điều 16 Luật Hôn nhân gia đình năm 1986 quy định: "Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng". Như vậy, ông Út đã không nhập 6,93 ha đất vườn cao su của riêng mình vào khối tài sản chung với bà Năm, thì việc ông Út cho bà Thạch (hoặc cho bất cứ một người nào khác) là hoàn toànthuộc quyền định đoạt của ông Út mà không cần phải có sự đồng ý của bà Năm.

Nếu cho rằng 6,93 ha đất của ông Út là tài sản chung với bà Năm, là hoàn toàn không đúng với quy định về tài sản chung tại Điều 14 Luật Hôn nhân gia đình năm 1986: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung". Trong khi diện tích đất này là ông Út mua bằng tiền riêng của mình từ năm 1955, mãi đến năm 1970 ông Út mới có hôn nhân thực tế với bà Năm.

Vì vậy, Tòa Phúc thẩm TANDTC tại TP.HCM kết luận: Không có sự thừa kế quan hệ chuyển nhượng mua bán nào bằng tiền về các lô cao su và đất, nhà giữa ông Út và bà Thạch như nguyên đơn đã khởi kiện. Việc định đoạt của ông Út hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc của Luật Dân sự và Luật Hôn nhân gia đình (luật cũ cũng như luật sau này). Việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Út là hoàn toàn không có cơ sở.

Sự việc đã quá rõ ràng, nhưng không biết việc xử án vẫn còn tiếp tục quanh quẩn đến bao giờ?

Việt Đức - Tú Nguyễn