In bài viết

Nhà báo Xuân Thủy: Từ 'Suối reo" trong lao tù đến ngòi bút thúc giục tổng khởi nghĩa

(Chinhphu.vn) - Trong dòng chảy vĩ đại của lịch sử cách mạng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, có những người con ưu tú đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong số đó, nhà báo, nhà cách mạng Xuân Thủy nổi lên như một biểu tượng sáng ngời, một ngòi bút sắc bén và một nhà tổ chức báo chí tài ba, người đã biến tờ báo thành vũ khí, biến con chữ thành lời hiệu triệu, góp phần to lớn vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945.

27/08/2025 09:00
Nhà báo Xuân Thủy: Từ 'Suối reo" trong lao tù đến ngòi bút thúc giục tổng khởi nghĩa- Ảnh 1.

Đồng chí Xuân Thuỷ (1912-1985)

Gieo mầm cách mạng trên mảnh đất quê hương

Xuân Thủy, tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, sinh ngày 2/9/1912, tại Hà Nội, trong một gia đình có truyền thống Nho học. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chàng thanh niên Nguyễn Trọng Nhâm đã sớm bộc lộ tinh thần yêu nước, căm ghét ách đô hộ của thực dân Pháp.

Năm 1934, ông tham gia hoạt động cách mạng và nhanh chóng trở thành một hạt nhân tích cực. Địa bàn hoạt động chủ yếu của ông trong giai đoạn đầu là tỉnh Phúc Yên (nay thuộc Vĩnh Phúc và một phần Hà Nội). Với sự nhiệt huyết, thông minh và khả năng diễn thuyết lôi cuốn, vận động quần chúng, ông không quản ngại gian khó, đi sâu vào các làng xã, nhà máy, đồn điền để tuyên truyền, giác ngộ công nhân và nông dân. Ông phân tích cho họ thấy nguồn gốc của sự bần cùng, chỉ ra kẻ thù chung của dân tộc, khơi dậy trong họ ý thức về quyền lợi và sức mạnh của chính mình. Với phong cách giản dị, chân thành, ông đã nhanh chóng chiếm được cảm tình và sự tin tưởng của người dân lao khổ. Công việc gây dựng phong trào ở Phúc Yên không chỉ đòi hỏi lòng dũng cảm mà còn cần trí tuệ và phương pháp hoạt động khéo léo. Xuân Thủy đã tổ chức các lớp học chữ Quốc ngữ để xóa mù chữ, nhưng thực chất là để truyền bá tư tưởng cách mạng. Ông xây dựng các hội ái hữu, tương tế để giúp đỡ lẫn nhau, qua đó tập hợp và đoàn kết quần chúng. Các cơ sở cách mạng bí mật dần được hình thành và phát triển vững chắc dưới sự chỉ đạo của ông, biến Phúc Yên thành một trong những địa phương có phong trào cách mạng vững mạnh ở Bắc Kỳ.

Chính trong quá trình này, Xuân Thủy đã sớm nhận ra sức mạnh của báo chí. Ông bắt đầu cộng tác với một số tờ báo tiến bộ ở Hà Nội, dùng ngòi bút của mình để vạch trần tội ác của thực dân, bênh vực quyền lợi của người lao khổ và kín đáo truyền bá tư tưởng yêu nước. Những bài viết đầu tay đã cho thấy một tài năng báo chí thiên bẩm, với lối viết giản dị, dễ hiểu nhưng đầy sức lay động và tính chiến đấu cao.

"Suối Reo" giữa lao tù và bản lĩnh gang thép của người cộng sản

Hoạt động năng nổ của ông nhanh chóng bị mật thám Pháp để ý. Từ năm 1938 đến 1943, ông liên tiếp bị địch bắt, giam cầm, tra tấn qua nhiều nhà tù khét tiếng như Hỏa Lò (Hà Nội), Bắc Mê (Hà Giang) và đặc biệt là nhà tù Sơn La. Thực dân Pháp xây dựng nhà tù Sơn La ở nơi "rừng thiêng nước độc" với âm mưu dùng sự khắc nghiệt của thiên nhiên và chế độ cai trị tàn bạo để tiêu diệt thể xác và ý chí của những người cộng sản. Nhưng "địa ngục trần gian" này không thể dập tắt ý chí cách mạng của người chiến sĩ mà còn tôi luyện họ trở nên bất khuất, ngoan cường. Năm 1941, Chi bộ Đảng nhà tù Sơn La đã đưa ra một quyết định táo bạo và sáng suốt: thành lập một tờ báo bí mật viết tay để lưu hành trong tù. Tờ báo được đặt cái tên đầy chất thơ và ẩn chứa một tinh thần lạc quan phi thường: "Suối Reo". "Suối Reo" không chỉ là tiếng suối của núi rừng Tây Bắc, mà còn là dòng chảy tư tưởng cách mạng không bao giờ ngừng nghỉ, ngay cả giữa bốn bức tường xiềng xích. Bởi thế, "Suối Reo" không chỉ là một tờ báo mà còn là biểu tượng của ý chí bất khuất, của trí tuệ và tinh thần lạc quan cách mạng.

Với tài năng văn chương sẵn có, sự sắc bén về chính trị đã được rèn giũa qua thực tiễn, Xuân Thủy được chi bộ tin tưởng tuyệt đối và giao trọng trách làm chủ bút. Ông đã cùng các đồng chí Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng... dồn hết tâm lực để duy trì tờ báo độc đáo này. Việc làm báo trong tù là một cuộc đấu trí và đấu sức thực sự. Mọi thứ đều thiếu thốn. Giấy là những mẩu giấy vụn, vỏ bao xi măng. Mực được chế từ tro bếp, gạch non. "Tòa soạn" là một góc phòng giam ẩm thấp, luôn phải cảnh giác cao độ trước sự kiểm soát của cai ngục. Thế nhưng, vượt lên tất cả, những trang báo Suối Reo vẫn đều đặn ra đời. Nội dung của báo vô cùng phong phú và thiết thực: phổ biến các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng được truyền từ bên ngoài vào; phân tích tình hình thế giới, đặc biệt là diễn biến của Thế chiến thứ hai; tổng kết và chia sẻ kinh nghiệm đấu tranh trong tù; và cả những sáng tác thơ văn để nuôi dưỡng tâm hồn, giữ vững khí tiết.

Trên cương vị chủ bút, Xuân Thủy không chỉ là người viết chính mà còn là một nhà biên tập bậc thầy. Ông đọc và sửa từng bài viết của đồng đội, cân nhắc từng câu chữ để mỗi bài báo khi ra đời đều đạt được hiệu quả tuyên truyền cao nhất, vừa sắc bén về lý luận, vừa dễ hiểu, dễ đi vào lòng người. 5 năm trong ngục tù đế quốc, đặc biệt là quãng thời gian làm báo Suối Reo, đã rèn luyện Xuân Thủy trở thành một nhà báo cách mạng toàn tài. Ông đã học được cách làm báo trong những điều kiện khắc nghiệt nhất, học được cách biến những vấn đề lý luận phức tạp thành ngôn ngữ giản dị và quan trọng hơn cả, ông hiểu sâu sắc rằng, báo chí chỉ có sức mạnh khi gắn bó máu thịt với sự nghiệp cách mạng và nói lên tiếng nói của quần chúng.

Nhà báo Xuân Thủy: Từ 'Suối reo" trong lao tù đến ngòi bút thúc giục tổng khởi nghĩa- Ảnh 2.

Bài thơ “Huân chương Hồ Chí Minh” do đồng chí Xuân Thuỷ sáng tác năm 1985, hiện đang được lưu giữ, trưng bày tại Bảo tàng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Người thuyền trưởng tài ba của báo "Cứu Quốc"

Đầu năm 1944, sau khi ra tù, với hành trang là ý chí được tôi luyện và kinh nghiệm báo chí được tích lũy từ trong gian khó, Xuân Thủy được Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh giao phó một nhiệm vụ trọng đại: trực tiếp phụ trách tờ báo Cứu Quốc - cơ quan cổ động tuyên truyền của Việt Nam độc lập đồng minh.

Làm báo trong hoàn cảnh này là một công việc hết sức khó khăn và nguy hiểm. Phát xít Nhật đã vào Đông Dương, cấu kết với thực dân Pháp để đàn áp phong trào cách mạng. Hoạt động của Đảng và Việt Minh phải chuyển vào bí mật. Địch lùng sục gắt gao, toà soạn báo Cứu Quốc không có một địa chỉ cố định, chủ yếu đặt tại các cơ sở cách mạng ở các làng quê Bắc Ninh, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) luôn phải sẵn sàng di chuyển khi bị đánh động.

Với vai trò là "thuyền trưởng", Xuân Thủy chịu trách nhiệm toàn diện. Ông vừa là người định hướng nội dung, vừa là cây bút chủ lực, vừa là nhà tổ chức sản xuất. Ông đã xây dựng một quy trình làm báo bí mật hết sức hiệu quả. Trong hồi ký, ông kể lại phương pháp làm báo độc đáo thời kỳ này: sau khi họp tòa soạn, thống nhất về nội dung, từng người sẽ tỏa đi các nơi để viết bài. Bài viết xong, ông không chỉ sửa mà còn "thử nghiệm" bằng cách mang đến các tổ Cứu Quốc ở cơ sở để đọc cho mọi người nghe, tiếp thu ý kiến rồi mới mang về sửa lại lần cuối. Cách làm này cho thấy tinh thần cầu thị và phương châm "lấy dân làm gốc" giúp cho tờ báo luôn gần gũi, dễ hiểu và đáp ứng được mong mỏi của quần chúng. Nhờ vậy, báo Cứu Quốc có sức sống mãnh liệt, gần gũi và lay động, dễ dàng đi vào tâm trí và trái tim của hàng vạn người đọc.

Nội dung của báo Cứu Quốc dưới sự chỉ đạo của Xuân Thủy đã bám rất sát các nhiệm vụ chính trị của cách mạng trong giai đoạn tiền khởi nghĩa. Để vạch trần bản chất của phát xít Nhật và thực dân Pháp, Cứu Quốc liên tục đăng tải các bài viết phân tích âm mưu, thủ đoạn giữa Pháp và Nhật, dự báo chính xác cuộc đảo chính ngày 9/3/1945. Trong một bài viết tháng 10/1944, ông đã chỉ rõ: "Đông Dương sắp thành bãi chiến trường... chính Nhật-Pháp cũng sẽ tự giết nhau". Những nhận định sắc sảo này đã giúp cán bộ và nhân dân có sự chuẩn bị về tư tưởng, không bị bất ngờ trước thời cuộc.

Không những thế, báo Cứu Quốc còn là phương tiện tuyên truyền đường lối, chính sách của Mặt trận Việt Minh một cách hữu hiệu, đặc biệt là chính sách đại đoàn kết dân tộc. Tờ báo kêu gọi tất cả các tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, đảng phái, cùng đứng lên dưới ngọn cờ Việt Minh để đánh đuổi kẻ thù chung. Báo có những bài viết dành riêng cho từng giới: công nhân, nông dân, binh lính, phụ nữ, trí thức... với ngôn ngữ và lập luận phù hợp. Bài "Phụ nữ" trên số báo Xuân 1945 đã đanh thép bác bỏ quan niệm "đàn bà con gái làm gì được", kêu gọi chị em "mau ra khỏi buồng the, xó bếp lên đường cứu nước"…

Báo Cứu Quốc còn tích cực cổ vũ và hướng dẫn các phong trào đấu tranh của quần chúng. Khi nạn đói khủng khiếp do Nhật-Pháp gây ra hoành hành, báo Cứu Quốc đã kịp thời hưởng ứng và lan tỏa khẩu hiệu "Phá kho thóc, giải quyết nạn đói" của Đảng. Những bài báo đã vạch trần tội ác của địch, đồng thời hướng dẫn nhân dân tổ chức đấu tranh, biến đau thương thành hành động cách mạng, từ đó khơi dậy một cao trào chống Nhật mạnh mẽ chưa từng có.

Bằng nhiều bút danh, Xuân Thủy đã viết hàng trăm bài xã luận, bình luận, tin tức... trên mặt báo. Văn phong của ông vừa giàu tính chiến đấu, vừa thấm đẫm tình cảm cách mạng, có sức lay động, thôi thúc và lan tỏa mạnh mẽ. Ông đã thành công trong việc biến những chủ trương, đường lối phức tạp của Đảng thành ngôn ngữ báo chí quần chúng, dễ đi vào lòng người, biến tờ báo thành người bạn, người chỉ dẫn tin cậy của nhân dân trong cuộc đấu tranh sinh tử.

Tiếng kèn xung trận và khúc hoan ca độc lập

Tháng 8/1945, thời cơ ngàn năm có một đến. Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc được ban bố. Trong không khí sục sôi "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta", báo Cứu Quốc dưới sự chỉ huy của Xuân Thủy đã hoạt động hết công suất, thực sự trở thành tiếng kèn xung trận.

Tờ Cứu Quốc đã tăng kỳ xuất bản, các số báo ra liên tiếp, kịp thời truyền đạt mệnh lệnh của Tổng bộ Việt Minh và Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc, hướng dẫn nhân dân các địa phương nổi dậy giành chính quyền. Những bài xã luận của Xuân Thủy trong giai đoạn này ngắn gọn, đanh thép, sục sôi khí thế, có sức mạnh thôi thúc như lời hịch cứu nước.

Ngày 19/8, cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội toàn thắng. Ngay lập tức, theo chỉ thị của Xứ ủy Bắc Kỳ, Xuân Thủy cùng toàn bộ "tòa soạn" báo Cứu Quốc khẩn trương từ chiến khu trở về Thủ đô. Ngày 24/8/1945, báo Cứu Quốc số 31 lần đầu tiên được xuất bản công khai tại Hà Nội, trở thành tờ báo hằng ngày lớn nhất của chính quyền cách mạng. Trang nhất của số báo lịch sử này đã trang trọng đăng bài xã luận do chính Xuân Thủy chấp bút, với tiêu đề "Lời chào Cứu quốc". Đây không chỉ là lời chào mừng thắng lợi, mà còn là một tuyên ngôn chính trị, một lời hiệu triệu đoàn kết toàn dân để bảo vệ thành quả cách mạng còn non trẻ.

Trong những ngày đầu của chính quyền mới, với cương vị Ủy viên Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời Bắc Bộ, Xuân Thủy vừa phải bận rộn giải quyết nhiều công việc quan trọng để ổn định đời sống, xây dựng trật tự mới, vừa phải dồn sức chỉ đạo tờ báo. Báo Cứu Quốc lúc này là công cụ quan trọng nhất của Chính phủ lâm thời để thông tin về tình hình, đăng tải các chính sách, sắc lệnh mới, đập tan các luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động, qua đó củng cố niềm tin và ổn định tư tưởng trong nhân dân.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong số ra ngày 5/9, báo Cứu Quốc đã vinh dự đăng toàn văn bản Tuyên ngôn Độc lập. Việc đưa văn kiện lịch sử có ý nghĩa như một bản khai sinh này đến với đồng bào cả nước một cách nhanh chóng và trang trọng nhất đã góp phần khẳng định đanh thép về mặt pháp lý nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới.

Từ một trí thức yêu nước, trải qua chặng đường cách mạng đầy gian khổ, chông gai nhưng cũng đầy vinh quang, tự hào, Xuân Thủy đã trở thành người chiến sĩ cộng sản kiên trung, một nhà tổ chức tài ba và đặc biệt là một cây đại thụ của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Ông đã cống hiến trọn vẹn tài năng, trí tuệ và nhiệt huyết của mình để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử: dùng báo chí để tuyên truyền, cổ động và tổ chức quần chúng đấu tranh, góp một phần vô cùng to lớn và không thể tách rời vào thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tên tuổi và sự nghiệp của ông mãi mãi được khắc ghi trong lịch sử dân tộc và lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam như một tấm gương sáng ngời về người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, người "thắp lửa" và "truyền lửa" cho hàng triệu quần chúng đứng lên giành lấy độc lập, tự do./.

Bùi Hoàn